Ở Việt Nam hiện nay, tương tự như chuẩn chung của thế giới, qui định về phát hành trái phiếu cũng chặt chẽ hơn phát hành cổ phiếu. Đối với trái phiếu doanh nghiệp, ngoài qui định phải có mức vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ trở lên và hoạt động kinh doanh của năm liền trước phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế như với phát hành cổ phiếu, công ty muốn chào bán trái phiếu ra công chúng còn phải đảm bảo không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm. Thêm vào đó, công ty phải có thời gian hoạt động từ 1 năm trở lên và báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán để đảm bảo tính minh bạch và công khai về thông tin cho các nhà đầu tư.Thị trường trái phiếu của Việt Nam còn nhỏ với tổng giá trị khoảng trên 70 nghìn tỷ đồng Việt Nam, bằng 7,7% GDP, nhưng môi trường kinh tế xã hội của Việt Nam ổn định, tỷ giá USD/VND trong những năm qua ít biến động, nên thị trường trái phiếu VN được đánh giá sẽ tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Thêm vào đó, xu hướng các doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chúng thay vì chủ yếu huy động vốn vay từ ngân hàng sẽ mang đến một diện mạo mới cho thị trường trái phiếu, một sự chuyển mình và phát triển mạnh, bền vững. Trên thị trường trái phiếu hiện nay đáng chú ý có hai loại trái phiếu chính là trái phiếu Chính phủ Việt Nam và trái phiếu chuyển đổi của một số ngân hàng
Trái phiếu Chính phủ Việt Nam được các nhà đầu tư đánh giá khá cao. Tháng 10 năm 2005, lần đầu tiên trái phiếu Chính phủ Việt Nam được phát hành ra thị trường vốn quốc tế. 750 triệu USD trái phiếu đã được các nhà đầu tư mua hết ngay trong vòng 30 giây sau khi phát hành. Một kết quả khó có thể khả quan hơn. Đợt trái phiếu này sẽ được mua bán lại trên tất cả các trung tâm chứng khoán (thị trường thứ cấp) lớn như Hongkong, Singapore, London, New York, Boston. liên tục đến năm 2016.Trong bài báo của tác giả Beth Thomas trên tờ Bloomberg số ra ngày 23/3/2007, công ty Pacific Investment Management Co. and HSBC Holdings Plc cho rằng nếu Việt Nam nới lỏng các hạn chế về phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ thì có thể khai thác tốt hơn nhu cầu của các nhà đầu tư quốc tế cũng như cắt giảm chi phí vay nợ. Còn tại hội nghị do Tổng Công ty Đầu tư vốn Nhà nước và Euromoney phối hợp tổ chức tại Hà Nội, ông Brian Baker, CEO của Pimco Asia Ltm đã phát biểu: "Các bạn đang có một thị trường nước ngoài rất hấp dẫn, thật đáng tiếc là vẫn còn quá nhiều thủ tục phải thông qua để phát hành được trái phiếu." Hiện nay nhu cầu đối với trái phiếu Chính phủ Việt Nam trên thị trường quốc tế là rất lớn. Trong đợt phát hành trái phiếu đầu tiên với lãi suất 6,875%, đáo hạn vào năm 2016, để huy động vốn cho ngành đóng tàu, nhu cầu của các nhà đầu tư đã cao gấp 6 lần so với số trái phiếu thực tế được phát hành. Mức lãi suất của trái phiếu chính phủ Việt Nam hiện đang là 5,78%, thấp hơn mức 5,95% của loại trái phiếu có kỳ hạn và xếp hạng tín dụng tương đương của Chính phủ Brazil. Điều này chứng tỏ trái phiếu của Việt Nam có mức độ hấp dẫn hơn. So với trái phiếu Chính phủ kỳ hạn tương đương Mỹ, hiện nay lãi suất của trái phiếu Việt Nam cũng chỉ cao hơn có 1,25%.Các quỹ lương, các công ty bảo hiểm cũng như các quỹ phòng hộ đều đang săn lùng các khoản đầu tư toàn cầu khi mà các ngân hàng trung ương đã ngừng tăng lãi suất và theo một dự đoán khác, FED sẽ giảm lãi suất vào tháng 6 năm nay. Theo ông Joshua Matthews, thuộc HSBC, Chính phủ Việt Nam có thể huy động hàng tỷ USD trên thị trường quốc tế nếu họ thực sự muốn, hiện đang có một số lượng ngoại tệ quá lớn tìm kiếm một số lượng trái phiếu quá ít ỏi.
Trong năm nay, VND đã tăng giá 0,3% so với USD, hiện đứng ở mức 16.014 VND/USD, VN Index đã tăng 48%, những con số hấp dẫn với nhà đầu tư quốc tế. Gần đây còn có thông tin trên kênh tài chính Blooberg của Mỹ cho thấy định mức tín nhiệm của Việt Nam được nâng lên. Tập đoàn Standard & Poor (S&P) nâng tín nhiệm của mình từ BB - lên BB (cao hơn nữa là BB+). Còn tập đoàn rất lớn là Moody cũng nâng lên mức Ba3.
Ở thị trường vốn trong nước, Chính phủ Việt Nam cũng đã phát hành thành công nhiều đợt trái phiếu theo phương thức đấu giá lãi suất. Trung tuần tháng 3/2007, 300 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ lần đầu tiên được phát hành đấu thầu theo lô lớn (lô 100, 200, 300. tỷ đồng) đã được các nhà đầu tư nước ngoài mua hết với mức lãi suất thấp nhất trong vòng ba năm trở lại đây 6,8%/năm. Từ sau lần này, những đợt phát hành tiếp theo lãi suất trái phiếu sẽ cố định, nhưng mệnh giá sẽ thay đổi. Giá trái phiếu sẽ không là 100.000 đồng nữa, mà có thể xuống 99.000-98.000 đồng hay lên 101.000-102.000 đồng. Sức hấp dẫn của trái phiếu càng cao, thì giá trúng thầu sẽ càng thấp hơn mệnh giá và ngược lại.Ngay sau đợt phát hành trái phiếu lô lớn trên, ngày 15/3, tập đoàn định mức tín nhiệm Moody’s của Mỹ đã nâng mức tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ Việt Nam từ ổn định lên tích cực trong bậc xếp hạng Ba3 hiện có. Theo của Moody's, mức trần đánh giá của trái phiếu giao dịch bằng ngoại tệ vẫn đứng ở mức Ba2, với triển vọng "ổn định". Mức trần đánh giá của tiền gửi chính phủ bằng ngoại tệ tăng từ "ổn định" lên "tích cực" trong bậc xếp hạng B1 hiện có. Mức trần đánh giá của trái phiếu Chính phủ giao dịch bằng nội tệ vẫn đứng ở mức Ba1.
Xuất phát từ thực tế đó,cùng với sự gợi ý của giáo viên hướng dẫn và anh chị hướng dẫn thực tập, em đã chọn đề tài :
Hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Nội dung của đề tài bao gồm:
Chương 1: Lý luận chung về phát hành Trái phiếu Chính phủ.
Chương 2 : Thực Trạng công tác phát hành Trái phiếu Chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCKHN).
Chương 3: : Một số giải pháp hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu chính phủ tại TTGDCKHN.
75 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2421 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu Chính phủ tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam hiện nay, tương tự như chuẩn chung của thế giới, qui định về phát hành trái phiếu cũng chặt chẽ hơn phát hành cổ phiếu. Đối với trái phiếu doanh nghiệp, ngoài qui định phải có mức vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ trở lên và hoạt động kinh doanh của năm liền trước phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế như với phát hành cổ phiếu, công ty muốn chào bán trái phiếu ra công chúng còn phải đảm bảo không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm. Thêm vào đó, công ty phải có thời gian hoạt động từ 1 năm trở lên và báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán để đảm bảo tính minh bạch và công khai về thông tin cho các nhà đầu tư.Thị trường trái phiếu của Việt Nam còn nhỏ với tổng giá trị khoảng trên 70 nghìn tỷ đồng Việt Nam, bằng 7,7% GDP, nhưng môi trường kinh tế xã hội của Việt Nam ổn định, tỷ giá USD/VND trong những năm qua ít biến động, nên thị trường trái phiếu VN được đánh giá sẽ tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Thêm vào đó, xu hướng các doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chúng thay vì chủ yếu huy động vốn vay từ ngân hàng sẽ mang đến một diện mạo mới cho thị trường trái phiếu, một sự chuyển mình và phát triển mạnh, bền vững. Trên thị trường trái phiếu hiện nay đáng chú ý có hai loại trái phiếu chính là trái phiếu Chính phủ Việt Nam và trái phiếu chuyển đổi của một số ngân hàng
Trái phiếu Chính phủ Việt Nam được các nhà đầu tư đánh giá khá cao. Tháng 10 năm 2005, lần đầu tiên trái phiếu Chính phủ Việt Nam được phát hành ra thị trường vốn quốc tế. 750 triệu USD trái phiếu đã được các nhà đầu tư mua hết ngay trong vòng 30 giây sau khi phát hành. Một kết quả khó có thể khả quan hơn. Đợt trái phiếu này sẽ được mua bán lại trên tất cả các trung tâm chứng khoán (thị trường thứ cấp) lớn như Hongkong, Singapore, London, New York, Boston... liên tục đến năm 2016.Trong bài báo của tác giả Beth Thomas trên tờ Bloomberg số ra ngày 23/3/2007, công ty Pacific Investment Management Co. and HSBC Holdings Plc cho rằng nếu Việt Nam nới lỏng các hạn chế về phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ thì có thể khai thác tốt hơn nhu cầu của các nhà đầu tư quốc tế cũng như cắt giảm chi phí vay nợ. Còn tại hội nghị do Tổng Công ty Đầu tư vốn Nhà nước và Euromoney phối hợp tổ chức tại Hà Nội, ông Brian Baker, CEO của Pimco Asia Ltm đã phát biểu: "Các bạn đang có một thị trường nước ngoài rất hấp dẫn, thật đáng tiếc là vẫn còn quá nhiều thủ tục phải thông qua để phát hành được trái phiếu." Hiện nay nhu cầu đối với trái phiếu Chính phủ Việt Nam trên thị trường quốc tế là rất lớn. Trong đợt phát hành trái phiếu đầu tiên với lãi suất 6,875%, đáo hạn vào năm 2016, để huy động vốn cho ngành đóng tàu, nhu cầu của các nhà đầu tư đã cao gấp 6 lần so với số trái phiếu thực tế được phát hành. Mức lãi suất của trái phiếu chính phủ Việt Nam hiện đang là 5,78%, thấp hơn mức 5,95% của loại trái phiếu có kỳ hạn và xếp hạng tín dụng tương đương của Chính phủ Brazil. Điều này chứng tỏ trái phiếu của Việt Nam có mức độ hấp dẫn hơn. So với trái phiếu Chính phủ kỳ hạn tương đương Mỹ, hiện nay lãi suất của trái phiếu Việt Nam cũng chỉ cao hơn có 1,25%.Các quỹ lương, các công ty bảo hiểm cũng như các quỹ phòng hộ đều đang săn lùng các khoản đầu tư toàn cầu khi mà các ngân hàng trung ương đã ngừng tăng lãi suất và theo một dự đoán khác, FED sẽ giảm lãi suất vào tháng 6 năm nay. Theo ông Joshua Matthews, thuộc HSBC, Chính phủ Việt Nam có thể huy động hàng tỷ USD trên thị trường quốc tế nếu họ thực sự muốn, hiện đang có một số lượng ngoại tệ quá lớn tìm kiếm một số lượng trái phiếu quá ít ỏi.
Trong năm nay, VND đã tăng giá 0,3% so với USD, hiện đứng ở mức 16.014 VND/USD, VN Index đã tăng 48%, những con số hấp dẫn với nhà đầu tư quốc tế. Gần đây còn có thông tin trên kênh tài chính Blooberg của Mỹ cho thấy định mức tín nhiệm của Việt Nam được nâng lên. Tập đoàn Standard & Poor (S&P) nâng tín nhiệm của mình từ BB - lên BB (cao hơn nữa là BB+). Còn tập đoàn rất lớn là Moody cũng nâng lên mức Ba3.
Ở thị trường vốn trong nước, Chính phủ Việt Nam cũng đã phát hành thành công nhiều đợt trái phiếu theo phương thức đấu giá lãi suất. Trung tuần tháng 3/2007, 300 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ lần đầu tiên được phát hành đấu thầu theo lô lớn (lô 100, 200, 300... tỷ đồng) đã được các nhà đầu tư nước ngoài mua hết với mức lãi suất thấp nhất trong vòng ba năm trở lại đây 6,8%/năm. Từ sau lần này, những đợt phát hành tiếp theo lãi suất trái phiếu sẽ cố định, nhưng mệnh giá sẽ thay đổi. Giá trái phiếu sẽ không là 100.000 đồng nữa, mà có thể xuống 99.000-98.000 đồng hay lên 101.000-102.000 đồng. Sức hấp dẫn của trái phiếu càng cao, thì giá trúng thầu sẽ càng thấp hơn mệnh giá và ngược lại.Ngay sau đợt phát hành trái phiếu lô lớn trên, ngày 15/3, tập đoàn định mức tín nhiệm Moody’s của Mỹ đã nâng mức tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ Việt Nam từ ổn định lên tích cực trong bậc xếp hạng Ba3 hiện có. Theo của Moody's, mức trần đánh giá của trái phiếu giao dịch bằng ngoại tệ vẫn đứng ở mức Ba2, với triển vọng "ổn định". Mức trần đánh giá của tiền gửi chính phủ bằng ngoại tệ tăng từ "ổn định" lên "tích cực" trong bậc xếp hạng B1 hiện có. Mức trần đánh giá của trái phiếu Chính phủ giao dịch bằng nội tệ vẫn đứng ở mức Ba1.
Xuất phát từ thực tế đó,cùng với sự gợi ý của giáo viên hướng dẫn và anh chị hướng dẫn thực tập, em đã chọn đề tài :
Hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Nội dung của đề tài bao gồm:
Chương 1: Lý luận chung về phát hành Trái phiếu Chính phủ.
Chương 2 : Thực Trạng công tác phát hành Trái phiếu Chính phủ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCKHN).
Chương 3: : Một số giải pháp hoàn thiện công tác phát hành trái phiếu chính phủ tại TTGDCKHN.
LỜI CẢM ƠN.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu tại nhà trường kết hợp với thời gian thực tập tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội , được sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình của thầy cô và của Trung tâm,phòng Quản lý giao dịch ,đã giúp đỡ em đã hoàn thành chuyên đề này .
Em xin bày tỏ lòng biết ơn giáo viên hướng dẫn đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này .
Em cũng xin chân thành cảm ơn Anh Nguyễn Tiến Dũng và Anh Đỗ Tuấn, cùng các anh chị ở Trung tâm đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại Trung tâm.
Chương I : Lý luận chung về phát hành Trái phiếu Chính phủ.
1. Phát hành chứng khoán.
Khái niệm về phát hành chứng khoán: Việc chào bán lần đầu tiên chứng khoán mới gọi là phát hành chứng khoán. Nếu đợt phát hành dẫn đến việc đưa một loại chứng khoán của một tổ chức lần đầu tiên ra công chúng thì gọi là phát hành lần đầu ra công chúng. Nếu việc phát hành đó là việc phát hành bổ sung bởi tổ chức đã có chứng khoán cùng loại lưu thông trên thị trường thì gọi là đợt phát hành chứng khoán bổ sung. Tuy nhiên, không phải mọi đối tượng đều được phát hành chứng khoán mà chỉ những chủ thể phát hành mới có được quyền này.
1.1. Các phương thức phát hành chứng khoán.
Có 2 phương thức phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó là phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
Phát hành riêng lẻ (Private Placement): Là việc công ty phát hành chào bán chứng khoán của mình trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán một cách lâu dài) như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí... với những điều kiện hạn chế chứ không phát hành rộng rãi ra công chúng. Các ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát hành riêng lẻ với tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Đa số các đợt phát hành trái phiếu đều thực hiện dưới hình thức phát hành riêng lẻ, việc phát hành cổ phiếu thường - cổ phiếu phổ thông ít khi được thực hiện dưới hình thức này.
Phát hành chứng khoán ra công chúng: là việc phát hành trong đó chứng khoán có thể chuyển nhượng được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn người đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định.
Ý nghĩa của việc phân biệt giữa phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng
Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để xác định những người phát hành rộng rãi ra công chúng phải là những công ty có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, nhằm bảo vệ cho công chúng đầu tư nói chung, nhất là những nhà đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời, đây cũng là điều kiện để xây dựng một thị trường chứng khoán an toàn, công khai và có hiệu quả.
Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật Công ty. Chứng khoán phát hành dưới hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán sơ cấp.
1.2. Bảo lãnh phát hành chứng khoán
1.2.1. Khái niệm
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên thế giới, các ngân hàng đầu tư thường là những tổ chức đứng ra làm bảo lãnh phát hành.
Tổ chức bảo lãnh là người chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng khoán của một tổ chức phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán để hưởng hoahồng.
1.2.2. Các phương thức bảo lãnh phát hành việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các phương thức sau:
* Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không. Trong hình thức bảo lãnh tổ hợp theo "cam kết chắc chắn", một nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ hợp để mua chứng khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá chào bán ra công chúng (POP) và bán lại các chứng khoán đó ra công chúng theo giá POP. Chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của các tổ chức bảo lãnh và giá chào bán ra công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu.
* Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: đây là phương thức thường được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường ở các nước phát triển. Trong trường hợp đó, công ty cần phải bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu, và như vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài. Dĩ nhiên, sẽ có một số cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty. Do vậy, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra ngoài công chúng. Có thể nói, bảo lãnh theo phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua nốt số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành và bán lại ra công chúng. Tại các nước đang phát triển, khi các tổ chức bảo lãnh còn non trẻ và chưa có tiềm lực lớn thì phương thức bảo lãnh phát hành dự phòng lại là phương thức bảo lãnh thông dụng nhất.
* Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành phần còn lại.
* Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: trong phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt phát hành.
* Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ
1.3. Phương pháp hành chứng khoán.
Nói chung, tất cả các đơn vị muốn phát hành chứng khoán ra công chúng trước hết phải được phép của Uỷ ban chứng khoán quốc gia. Để Uỷ ban có cơ sở xem xét một đơn vị có đủ điều kiện phát hành chứng khoán hay không, đơn vị phải làm đơn xin phát hành kèm theo một bản cáo bạch.
Theo Nghị định 48/1998 NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
* Thủ tục và thời hạn cấp giấy phát hành:
Hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành chứng khoán ra công chứng được gửi Uỷ ban Chứng khoán Nhà Nước. Trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp hoặc từ chối cấp giấy phép. Trường hợp từ chối cấp giấy phép, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước phải giải thích rõ lý do bằng văn bản.
* Sử dụng thông tin trước khi được phép phát hành:
Trong thời gian Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xem xét hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành, tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành và các đối tượng có liên quan chỉ được sử dụng trung thực và chính xác các thông tin trong bản cáo bạch đã gửi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước để thăm dò thị trường.
* Công bố việc phát hành:
Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận được giấy phép phát hành có nghĩa vụ công bố việc phát hành trên năm số báo liên tiếp của một tờ báo trung ương và một tờ báo địa phương nơi tổ chức phát hành đặt trụ sở chính. Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc đại diện chỉ được sử dụng thông tin trong hồ sơ xin cấp giấy phép phát hành đã được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước chấp thuận để phát hành.
Nếu thực hiện phát hành chứng khoán qua TTCK tập trung, bản cáo bạch khi được trình lên UBCKQG thì đồng thời cũng được gởi đến Sở giao dịch chứng khoán kèm theo đơn xin đăng ký yết giá tại Sở giao dịch chứng khoán.
Sau thời hạn tối đa (3 tháng) kể từ ngày Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận cho phép phát hành, nếu loại chứng khoán đó không được phát hành thì sẽ bị huỷ bỏ, và sẽ được công bố công khai. Cũng có thể có sự gia hạn thêm một thời hạn nhất định (có thể là 1 đến 2 tháng) cho những đơn vị có lý do chính đáng, theo đề nghị của đơn vị phát thành.
* Thời hạn chào bán:
Tổ chức phát hành phải phát hành chứng khoán theo phương án đã được duyệt trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày giấy phép phát hành có hiệu lực. Quá thời hạn trên, tất cả các chứng khoán chưa bán hết không được phát hành tiếp ra công chúng.
* Đình chỉ phát hành:
Tổ chức được cấp giấy phép phát hành bị đình chỉ việc phát hành, nếu Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước phát hiện những sai lệch hoặc những thông tin không chính xác trong bản cáo bạch có thể ảnh hưởng tới quyết định đầu tư và gây thiệt hại cho người đầu tư. Tổ chức phát hành phải sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và thông báo công khai việc sửa đổi, bổ sung này.
Trường hợp việc phát hành bị đình chỉ, người đầu tư có quyền huỷ bỏ việc đặt mua chứng khoán hoặc trả lại chứng khoán đã mua; trong trường hợp này tổ chức phát hành và các tổ chức có liên quan khác có nghĩa vụ hoàn trả tiền cho người mua trong vòng 30 ngày, kể từ ngày việc phát hành bị đình chỉ.
Sau khi được phép của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, công ty có thể chọn những cách phát hành sau:
1). Bán riêng cho các nhà đầu tư lớn:
Tại những nước đã phát triển những định chế trung gian như: công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu bổng,.v.v… sẽ là những khách hàng mua chứng khoán với khối lượng lớn. Do đó, công ty có thể bán trực tiếp cho những đối tượng này.
2). Chào bán trực tiếp cho công chúng theo giá đã quy định:
Thường công ty nhờ đến các nhà phát hành làm cố vấn, các nhà phát hành này thường là các ngân hàng thương mại hay công ty tài chính sẽ cố vấn cho các công ty muốn huy động vốn và tổ chức phát hành. Công ty và các cố vấn của mình phải cố gắng đạt được một sự cân đối giữa giá tốt nhất cho quyền lợi công ty và giá chào bán đủ hấp dẫn để lôi kéo sự quan tâm của công chúng và bảo đảm cho việc phát hành thành công.
3). Chào bán qua các nhà môi giới:
Cũng là một cách bán chứng khoán ra công chúng nhưng sự khác biệt ở chỗ nhà môi giới mua các chứng khoán đã phát hành từ công ty và sau đó chào bán lại cho công chúng.
Thường có hai cách để nhà môi giới mua chứng khoán từ công ty:
* Bằng phương pháp đấu thầu (Offer bay tender):
Công ty cổ phẩn chỉ ấn định một giá đăng ký tối thiểu, nhà môi giới phát hành nào đưa ra giá cao nhất sẽ được mua.
* Bằng phương pháp thương lượng (Negotiated offering):
Công ty phát hành sẽ đàm phán với các ngân hàng nhận bao tiêu những chứng khoán do công ty phát hành. Cuộc thương lượng này liên quan đến các điều kiện về giá nhượng bán cho ngân hàng nhận bao tiêu toàn bộ số cổ phiếu phát hành. Sau đó, ngân hàng sẽ bán lại dần cho các nhà đầu tư cuối cùng. Hoặc ngân hàng chỉ nhận làm môi giới - nhà đại lý tiêu thụ - thương lượng phí hoa hồng phát hành cho việc bằng mọi nỗ lực tiêu thụ cổ phần.
4). Các loại bảo đảm phát hành:
Các định chế tài chính trung gian (công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư) thường ký các hợp đồng bảo đảm phát hành các hình thức thức sau:
Loại 1: Bảo lãnh bao tiêu (underwritng) là hình thưc bảo đảm chắc chắn (firm commitment):
Theo hình thức này, công ty môi giới khi nhận bán sẽ mua toàn bộ số chứng khoán của một đợt phát hành của công ty cổ phần và sau đó bán lại cho nhà đầu tư với giá cao hơn để hưởng chênh lệch.
Hoặc thể ký hợp đồng nhận bán toàn bộ chứng khoán với một giá nhất định cho đến hạn không còn ai mua nữa thì công ty môi giới sẽ nhận mua toàn bộ só chứng khoán còn lại. Thường chỉ có những tập đoàn tài chính ngân hàng lớn mới có đủ khả năng tài chính để nhận bảo lãnh phát hành chứng khoán. Khi nhận nhiệm vụ này họ phải mặc nhiên chấp nhận rủi ro do giá của cổ phần có thể lên hay xuống thấp hơn giá mua. Do đó, trước khi nhận bao tiêu chứng khoán cho một công ty nào, công ty môi giới phải thẩm tra tình hiình mọi mặt của công ty, quan trọng nhất là tình hình tài chính: cơ cấu nguồn vốn và khả năng sinh lợi.
Ví dụ: Công ty muốn bán toàn bộ số cổ phiếu có giá trị là $10.000.000, công ty môi giới chỉ có thể bán được $8.000.000, số còn lại $ 2.000.000 cổ phiếu không bán được sẽ được công ty môi giới mua bằng tài khoản của chính họ.
Loại 2: Đại lý phát hành với cố gắng cao nhất (best effort): Các nhà phát hành nhạn bán chứng khoán nhưng không nhận mua hết số chứng khoán không được bán. Nghĩa là không ký kết đảm bảo hết toàn bộ chứng khoán. Họ chỉ cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán trong thời hạn, nếu không bán hết số chứng khoán còn lại sẽ được trả cho công ty cổ phần.
Hình thức làm đại lý phát hành thường được các công ty môi giới không nhiều vốn chấp nhận bởi vì họ không muốn lãnh chịu rủi ro trong kinh doanh chứng khoán, họ chỉ đơn giản nhận bán hộ để hưởng hoa hồng.
Ví dụ: Công ty muốn bán toàn bộ số cổ phiếu $10.000.000, công ty môi giới chỉ có thể bán được $ 8.000.000 giá trị cổ phiếu họ phải trả lại số cổ phiếu có giá trị $ 2.000.000 cho công ty phát hành.
Loại 3: Bảo đảm tất cả hoặc không (all-or-none):
Trường hợp này, công ty cổ phần cần một số lượng tối thiểu cổ phiếu phải bán hết, nếu không sẽ bị huỷ bỏ toàn bộ số lượng đã phân phối và tiền sẽ được trả lại cho những người đặt mua cổ phiếu.
Ví dụ: Công ty muốn bán toàn bộ cổ phiếu $10.000.000. Yêu cầu công ty môi giới phải bán tối thiểu 70% giá trị đợt phát hành tức là công ty phải nhận được số tiền tối thiểu $7.000.000 hoặc toàn bộ đợt phát hành bị huỷ bỏ.
Nói chung, trong công việc phát hành chứng khoán ra công chúng, tất nhiên công ty có thể tự làm nhưng thường là thông qua một hay nhiều ngân hàng, công ty tài chính.
Tuy phí tổn phát hành có cao hơn, nhưng là một sự hợp tác có lợi cho cả đôi bên.
Công ty phát hành sẽ được hỗ trợ về kinh nghiệm vận động bán chứng khoán theo đúng luật định - nhận được sự tài trợ khi công ty chưa được công chúng biết đến hoặc để huy động một khối lượng vốn đúng hạn. Về phía các ngân hàng hoặc công ty tài chính nhận làm cố vấn, bao tiêu hay đại lý sẽ được hưởng phí