Đề tài Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Công trình giao thông 116

Với việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các ngành, nghề của Việt Nam phát triển. Hòa mình vào tiến trình đổi mới, phát triển của đất nước, ngành xây dựng cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nhờ đó mà bộ mặt quốc gia, diện mạo của hệ thống công trình giao thông được đổi mới, khang trang và không ngừng lớn mạnh. Để có được những thành quả như mong muốn thì các doanh nghiệp xây lắp phải đổi mới mọi mặt, chú trọng công tác tổ chức bộ máy quản lý, phát triển sản xuất đồng thời là công tác quản lý tài chính và hạch toán kế toán. Một nội dung quan trọng của công tác hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp xây lắp chính là công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Giá thành sản phẩm là một nội dung chính để xác định giá trị công trình và là căn cứ để tính giá sản phẩm. Giá thành sản phẩm là biểu hiện cụ thể của chi phí sản xuất. Việc phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học và hợp lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với công tác hạch toán. Không những thế nó còn có vai trò rất lớn trong việc kiểm tra, phân tích cơ cấu chi phí, tạo điều kiện cho việc quản lý chặt chẽ chi phí, hướng tới tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm. Trong quá trình học hỏi, tiếp xúc thực tế tại công ty Công trình giao thông 116 em đã nghiên cứu và xin trình bày đề tài Luận văn tốt nghiệp của mình: “Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Công trình giao thông 116”. Đề tài của em xin được trình bày những nội dung sau: - Chương I: Những lý luận chung về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp - Chương II: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Công trình giao thông 116 - Chương III: Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Công trình giao thông 116

doc137 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1481 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Công trình giao thông 116, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Với việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các ngành, nghề của Việt Nam phát triển. Hòa mình vào tiến trình đổi mới, phát triển của đất nước, ngành xây dựng cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nhờ đó mà bộ mặt quốc gia, diện mạo của hệ thống công trình giao thông được đổi mới, khang trang và không ngừng lớn mạnh. Để có được những thành quả như mong muốn thì các doanh nghiệp xây lắp phải đổi mới mọi mặt, chú trọng công tác tổ chức bộ máy quản lý, phát triển sản xuất đồng thời là công tác quản lý tài chính và hạch toán kế toán. Một nội dung quan trọng của công tác hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp xây lắp chính là công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Giá thành sản phẩm là một nội dung chính để xác định giá trị công trình và là căn cứ để tính giá sản phẩm. Giá thành sản phẩm là biểu hiện cụ thể của chi phí sản xuất. Việc phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học và hợp lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với công tác hạch toán. Không những thế nó còn có vai trò rất lớn trong việc kiểm tra, phân tích cơ cấu chi phí, tạo điều kiện cho việc quản lý chặt chẽ chi phí, hướng tới tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm. Trong quá trình học hỏi, tiếp xúc thực tế tại công ty Công trình giao thông 116 em đã nghiên cứu và xin trình bày đề tài Luận văn tốt nghiệp của mình: “Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Công trình giao thông 116”. Đề tài của em xin được trình bày những nội dung sau: - Chương I: Những lý luận chung về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp - Chương II: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Công trình giao thông 116 - Chương III: Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Công trình giao thông 116 Em xin cảm ơn cô giáo Phạm Thị Bích Chi đã hướng dẫn em trong quá trình thực tập. Ngoài ra em xin cảm ơn các cô các chú ở Công ty CTGT 116 đặc biệt là các cô chú trong phòng kế toán đã chỉ bảo giúp đỡ em trong quá trình thực tập. Do sự hiểu biết của em còn hạn chế và sự tiếp xúc với thực tế còn nhiều bỡ ngỡ, nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của cô giáo và các cô chú để bài viết của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn! CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 1.1.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh xây lắp ảnh hưởng tới công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp * Đặc điểm hoạt động xây lắp Xây dựng cơ bản là một hình thức sản xuất vật chất đặc biệt nhằm tạo ra cơ sở hạ tầng cho xã hội. Đặc điểm hoạt động xây lắp có ảnh hưởng đến tổ chức kế toán. Các doanh nghiệp xây lắp đều là những tổ chức nhận thầu xây lắp. Sản phẩm xây lắp có những đặc điểm riêng biệt khác với ngành sản xuất khác đó là những công trình, hạng mục công trình được kết cấu bởi những vật tư, thiết bị xây lắp do tác động của lao động xây lắp và gắn liền với những địa điểm nhất định như mặt đất, mặt nước, không gian. Do có những đặc điểm như vậy nên có ảnh hưởng đến tổ chức kế toán trong các doanh nghiệp xây lắp. - Sản phẩm xây lắp là những công trình, vật kiến trúc…mang tính đơn chiếc, có kết cấu phức tạp, mỗi sản phẩm xây lắp có kết cấu kỹ, mỹ thuật, vật tư, địa điểm, nhân lực, dự toán và phương pháp thi công khác nhau. Mặt khác, sản phẩm xây lắp còn có quy mô và giá trị lớn, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp kéo dài… Đặc điểm này gây khó khăn cho việc quản lý giá thành. Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp nhất thiết phải lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công). Quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời để giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm công trình xây lắp. - Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu). Do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp thường không thể hiện rõ (vì đã quy định giá cả, người mua, người bán sản phẩm xây lắp có trước khi xây dựng thông qua hợp đồng giao nhận thầu…). - Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, người lao động…) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, thời tiết và dễ mất mát hư hỏng… - Sản phẩm xây lắp từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao đưa vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc vào quy mô, tính chất phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia làm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc thường diễn ra ngoài trời chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường như nắng, mưa, lũ lụt… Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán: Các nhà thầu phải có trách nhiệm bảo hành công trình (chủ đầu tư giữ lại một tỷ lệ nhất định trên giá trị công trình, khi hết thời hạn bảo hành công trình mới trả lại cho đơn vị xây lắp…). Do những đặc điểm khác biệt của sản phẩm xây lắp nên để phát huy vai trò là công cụ quản lý kinh tế, công tác kế toán nói chung và công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp nói riêng phải được tổ chức phù hợp với yêu cầu, trình độ quản lý và đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của ngành xây dựng và thực hiện đúng theo các chế độ, quy định đối với doanh nghiệp xây lắp do Nhà nước ban hành. * Đặc điểm tổ chức kế toán trong doanh nghiệp xây lắp + Đối tượng hạch toán chi phí có thể là hạng mục công trình, các giai đoạn công việc của hạng mục công trình hoặc nhóm các hạng mục công trình…từ đó xác định phương pháp hạch toán chi phí thích hợp. + Đối tượng tính giá thành là các hạng mục công trình đã hoàn thành, các giai đoạn công việc đã hoàn thành, khối lượng xây lắp có tính dự toán riêng đã hoàn thành…từ đó xác định phương pháp tính giá thành thích hợp: phương pháp trực tiếp, phương pháp tổng cộng chi phí, phương pháp hệ số hoặc tỷ lệ… + Xuất phát từ đặc điểm của phương pháp lập dự toán trong XDCB dự toán được lập theo từng hạng mục chi phí. Để có thể so sánh kiểm tra chi phí sản xuất xây lắp thực tế phát sinh với dự toán, chi phí sản xuất xây lắp được phân loại theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung. 1.1.2. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp 1.1.2.1. Khái niệm chi phí sản xuất Sản xuất là một quá trình gắn liền với sự tồn tại và phát triển của loài người. Cũng như các ngành sản xuất vật chất khác, quá trình sản xuất của ngành xây lắp cũng là sự kết hợp của 3 yếu tố cơ bản: đối tượng lao động, tư liệu lao động, và lao động sống. Lao động là một hoạt động có ý thức của con người tác động lên đối tượng lao động và tư liệu lao động để tao ra sản phẩm. Đó chính là sự tiêu hao ba yếu tố trên và đó được gọi là chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp bỏ ra trong một kỳ kinh doanh nhất định để thực hiện quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm xây lắp. Chi phí về lao động sống là những chi phí về tiền lương, thưởng, phụ cấp và các khoản trích theo lương của người lao động. Chi phí lao động vật hoá là những chi phí về sử dụng các yếu tố tư liệu lao động, đối tượng lao động dưới hình thái vật chất, phi vật chất, tài chính và phi tài chính. 1.1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp nói chung và trong doanh nghiệp xây lắp có rất nhiều loại khác nhau về nội dung kinh tế, mục đích, công dụng, vị trí và quan hệ của chi phí với quá trình sản xuất. Việc phân loại chi phí sản xuất theo các tiêu thức là để đáp ứng, phục vụ nhu cầu, mục đích hạch toán, kiểm tra, kiểm soát chi phí phát sinh…ở các góc độ khác nhau. * Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm Cách phân loại này căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm xây lắp và thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng chung của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Chi phí phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp xây lắp được phân loại: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm giá trị thực tế của nguyên vật liệu chính, phụ hoặc các bộ phận rời, vật liệu luân chuyển tham gia cấu thành thực tế sản phẩm xây lắp và giúp cho việc thực hiện và hoàn thành khối lượng xây lắp (không kể vật liệu cho máy móc thi công và hoạt động sản xuất chung). - Chi phí nhân công trực tiếp: là chi phí về tiền lương chính, lương phụ, phụ cấp lương của công nhân trực tiếp sản xuất. - Chi phí sử dụng máy thi công: bao gồm các chi phí cho các máy thi công nhằm thực hiện khối lượng xây lắp bằng máy. Máy móc thi công là loại máy trực tiếp phục vụ xây lắp công trình. Đó là những máy móc chuyển động bằng động cơ hơi nước, diezen, xăng, điện,… - Chi phí sản xuất chung: là các khoản chi phí liên quan đến việc phục vụ và quản lý sản xuất tại các đội, các công trường xây dựng, bao gồm: lương nhân viên quản lý đội, tiền ăn ca và các khoản trích theo lương theo tỷ lệ quy định (19% trên tiền lương) của công nhân trực tiếp xây lắp, công nhân điều khiển xe, máy thi công và nhân viên quản lý đội, chi phí khấu hao TSCĐ dùng chung cho hoạt động của đội, chi phí công cụ dụng cụ và các chi phí khác phát sinh trong kỳ liên quan đến hoạt động của đội… - Chi phí bán hàng: gồm toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá dịch vụ trong kỳ. - Chi phí quản lý doanh nghiệp: gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến quản trị kinh doanh và quản trị hành chính trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà không tách được cho bất cứ hoạt động hay phân xưởng, công trường nào. * Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí (phân loại theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí) Để phục vụ cho việc tập hợp và quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu thống nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh, chi phí được phân theo yếu tố. Cách phân loại này giúp cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí. Theo quy định thì toàn bộ chi phí được chia thành các yếu tố: - Chi phí nguyên liệu, vật liệu: gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ…sử dụng trong sản xuất kinh doanh. - Chi phí nhiên liệu, động lực: sử dụng cho quá trình sản xuất kinh doanh. - Chi phí nhân công: gồm tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương phải trả cho công nhân viên chức. - Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ: được trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp phải trả cho cán bộ công nhân viên. - Chi phí khấu hao TSCĐ: tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả các TSCĐ phục vụ sử dụng trong sản xuất kinh doanh. - Chi phí dịch vụ mua ngoài: toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. - Chi phí bằng tiền khác: toàn bộ các chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh. * Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí - Biến phí (chi phí biến đổi): là những khoản chi phí sẽ thay đổi khi khối lượng sản phẩm sản xuất thay đổi, trong khi đó thì biến phí đơn vị sản phẩm có tính ổn định khi khối lượng sản phẩm thay đổi. Biến phí có thể là: chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí bao bì,… - Định phí (chi phí cố định): là những khoản chi phí sẽ không thay đổi khi khối lượng sản phẩm sản xuất thay đổi trong phạm vi giới hạn công suất thiết kế. Khi khối lượng sản phẩm sản xuất tăng lên trong phạm vi công suất thiết kế, thì định phí đơn vị sản phẩm có xu hướng giảm xuống. Định phí bao gồm: chi phí khấu hao TSCĐ sử dụng chung, tiền lương nhân viên, cán bộ quản lý,… - Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí mà bản thân nó bao gồm cả yếu tố biến phí và định phí. Ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện các đặc điểm của định phí, quá mức đó nó sẽ thể hiện các đặc điểm của biến phí. Chi phí hỗn hợp thường gồm: chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp,… Cách phân loại trên giúp doanh nghiệp thuận tiện trong việc lập kế hoạch, kiểm tra chi phí, xác định điểm hoà vốn, phân tích tình hình tiết kiệm chi phí, tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm đồng thời là căn cứ ra quyết định hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh. * Phân loại chi phí theo phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và mối quan hệ với đối tượng tập hợp chi phí - Chi phí trực tiếp: là những chi phí sản xuất liên quan trực tiếp đến một hoạt động cụ thể hoặc từng đối tượng chịu chi phí và có thể chuyển trực tiếp cho một sản phẩm hoặc đối tượng chịu chi phí, như: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp,… - Chi phí gián tiếp: là những chi phí chung hay chi phí kết hợp, không có liên quan đến hoạt động hoặc đối tượng cụ thể nào, mà liên quan cùng lúc với nhiều đối tượng hoặc nhiều hoạt động chịu chi phí như chi phí sản xuất chung… Do vậy để xác định chi phí gián tiếp của một hoạt động cụ thể phải áp dụng phương pháp phân bổ. Ngày nay, sản xuất kinh doanh ngày càng đa dạng, chuyển hóa nhanh chóng, sự tự động hóa ngày càng cao, ngày càng hạn chế về giá trị tỷ trọng nguyên vật liệu, lao động trực tiếp, tăng dần các dịch vụ khác dẫn đến một xu hướng giảm dần chi phí trực tiếp, tăng chi phí gián tiếp. Vì vậy, sự tính toán, phân bổ sai lệch cho mỗi đối tượng, mỗi bộ phận sẽ làm cho nguy cơ sai lệch tăng cao. Do đó, cách phân loại chi phí như trên có ý nghĩa với việc xác định phương pháp kế toán tập hợp chi phí và phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. * Phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển chi phí - Chi phí sản phẩm: là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua. - Chi phí thời kỳ: là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ hoặc được mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra từ lợi nhuận của thời kỳ mà chúng phát sinh. 1.1.3. Giá thành sản phẩm xây lắp và phân loại giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp 1.1.3.1. Khái niệm giá thành sản phẩm xây lắp Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hóa phát sinh trong quá trình sản xuất có liên quan tới khối lượng xây lắp đã hoàn thành. Như vậy, giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau vốn có của nó là chi phí sản xuất chi ra và giá trị khối lượng sản phẩm thu được cấu thành trong khối lượng sản phẩm, công việc hoàn thành. Giá thành sản phẩm chính là sự dịch chuyển giá trị của những yếu tố chi phí bên trong nó, còn chi phí là cơ sở để hình thành nên giá thành. Giá thành có hai chức năng chủ yếu là bù đắp chi phí và lập giá. Số tiền thu được từ việc tiêu thụ sản phẩm sẽ bù đắp phần chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất sản phẩm đó. Tuy nhiên, sự bù đắp các yếu tố chi phí đầu vào mới chỉ là đáp ứng yêu cầu của tái sản xuất giản đơn. Trong khi đó, mục đích chính của cơ chế thị trường là tái sản xuất mở rộng tức là giá tiêu thụ hàng hóa sau khi bù đắp chi phí vẫn phải có lãi. Do đó, việc quản lý, hạch toán công tác giá thành sao cho vừa hợp lý, chính xác vừa đảm bảo vạch ra phương hướng hạ thấp giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, quản lý của doanh nghiệp, kết quả sử dụng các loại vật tư, lao động, tiền vốn cũng như các giải pháp kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp thực hiện nhằm đạt mục đích sản xuất ra khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí thấp nhất. Giá thành sản phẩm còn là căn cứ để tính toán xác định hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. 1.1.3.2. Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp * Phân loại giá thành theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành - Giá thành dự toán: là tổng chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình. Giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở thiết kế kỹ thuật đã được duyệt, các định mức kinh tế kỹ thuật do Nhà nước quy định, tính theo đơn giá tổng hợp cho từng khu vực thi công và phân tích định mức. Căn cứ vào giá trị dự toán, ta có thể xác định được giá thành của sản phẩm xây lắp theo công thức: - = Giá thành dự toán Giá trị dự toán Lãi định sản phẩm xây lắp sản phẩm xây lắp mức Trong đó: + Lãi định mức trong XDCB được Nhà nước quy định trong từng thời kỳ + Giá trị dự toán xây lắp được xác định dựa vào định mức đánh giá của các cơ quan có thẩm quyền và dựa trên mặt bằng giá cả thị trường. Giá thành dự toán công tác xây lắp là hạn mức chi phí cao nhất mà doanh nghiệp có thể chi ra để đảm bảo có lãi, là tiêu chuẩn phấn đấu hạ định mức thực tế. Nó là căn cứ để kế hoạch hóa giá thành công tác xây lắp và vạch ra các biện pháp tổ chức kinh tế kỹ thuật nhằm đảm bảo nhiệm vụ hạ giá thành công tác xây lắp được giao. - Giá thành kế hoạch: là giá thành được xác định trên cơ sở giá thành dự toán gắn với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp như biện pháp thi công, các định mức, đơn giá áp dụng trong đơn vị, giá thành thực tế kỳ trước. Giá thành kế hoạch được lập dựa vào định mức chi phí nội bộ của doanh nghiệp. Về nguyên tắc, định mức nộ bộ này phải tiên tiến hơn định mức dự toán. Vì vậy, giá thành kế hoạch phải nhỏ hơn hoặc bằng giá thành hợp đồng nên giá thành kế hoạch là cơ sở để phấn đấu hạ giá thành trong giai đoạn kế hoạch. Đây cũng là căn cứ phản ánh trình độ quản lý giá thành của doanh nghiệp. - = Giá thành kế hoạch Giá thành dự toán Mức hạ giá công tác xây lắp công tác xây lắp thành dự toán - Giá thành thực tế: là toàn bộ chi phí thực tế mà đơn vị bỏ ra để hoàn thành khối lượng xây lắp theo số liệu kế toán. Nó không chỉ bao gồm chi phí trong định mức mà còn có thể bao gồm những chi phí thực tế phát sinh không cần thiết như: thiệt hại phá đi làm lại, thiệt hại ngừng sản xuất, hao hụt vật tư,…do những nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp. Giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp. Muốn đánh giá được chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất thi công của đơn vị xây lắp ta có thể so sánh các loại giá thành trên với nhau. Giá thành dự toán mang tính xã hội nên việc so sánh giá thành thực tế với giá thành dự toán cho phép ta đánh giá được sự tiến bộ hay yếu kém của doanh nghiệp xây lắp trong điều kiện cụ thể về biện pháp thi công, cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ tổ chức quản lý của bản thân doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc so sánh này cần đảm bảo tính thống nhất và có thể so sánh được, tức là được thực hiện trên cùng một đối tượng tính giá thành cụ thể. Về nguyên tắc thì mối quan hệ giữa các loại giá thành trên phải đảm bảo như sau: Giá thành dự toán ≥ Giá thành kế hoạch ≥ Giá thành thực tế Đây cũng là nguyên tắc khi xây dựng giá thành và tổ chức thực hiện kế hoạch giá thành, có như vậy doanh nghiệp mới đảm bảo có lãi, có tích luỹ sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. * Phân loại giá thành theo phạm vi phát sinh chi phí - Giá thành sản xuất: là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất. Đối với các đơn vị xây lắp, giá thành sản xuất gồm chi phí nguyên vật liệu, chi p
Luận văn liên quan