Đề tài Hoạt động huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh

Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng ra đời sớm nhất xét về mặt lịch sử ở các nước phương Tây.Cùng với sự phát triển của nền kinh tế,các chức năng,vai trò,đối tượng và phạm vi hoạt động kinh doanh của các NHTM ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp,do vậy mà ở các nước có rất nhiều quan niệm khác nhau về NHTM.Tuy nhiên,các nhà kinh tế học và luật gia ở các nước đều thừa nhận điểm chung là khái niệm NHTM được dùng để chỉ tổ chức làm chức năng thu nhận tiền gửi của công chúng và đem số tiền đó cho người khác vay để kiếm lời.Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997,sửa đổi năm 2003 đã định nghĩa về NHTM thông qua định nghĩa “ngân hàng” và “hoạt động ngân hàng”.Theo đó: • Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo tính chất và mục tiêu hoạt động,các loại hình ngân hàng gồm NHTM,ngân hàng phát triển,ngân hàng đầu tư,ngân hàng chính sách,ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. • Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi,sử dụng số tiền,sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.

doc30 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7106 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 4 I. Khái niệm ngân hàng thương mại và đặc điểm kinh doanh của ngân hàng thương mại 4 1. Khái niệm ngân hàng thương mại 4 2.Đặc điểm hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 6 II. Khái niệm,đặc điểm,phân loại và vai trò của hoạt động huy động vốn tại các ngân hàng thương mại 8 1. khái niệm về hoạt động huy động vốn 8 2. Các hình thức huy động vốn 9 a) Nhận tiền gửi của khách hàng 9 b) Đi vay 10 c) Tăng vốn chủ sở hữu 12 CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI 14 QUỐC DOANH VIỆT NAM 14 I. Giới thiệu chung về ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam 14 1. Sự hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam. 14 2. Cơ cấu tổ chức 16 3. Ngành nghề kinh doanh 16 4.Tình hình kinh doanh của Vpbank trong những năm gần đây. 17 II. Hoạt động huy động vốn tại VP Bank. 18 1. Quy mô nguồn vốn huy động. 18 2. Cơ cấu nguồn vốn 19 a. Cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền 19 b. Cơ cấu nguồn vốn theo đối tượng khách hàng (triệu VNĐ) 19 3. Chi phí và lãi suất huy động. 20 4.Các hoạt động Marketing để thu hút vốn. 20 III. Đánh giá chung về hoạt động huy động vốn tại VPbank. 20 1) Thành tích đạt được 20 2) Hạn chế và nguyên nhân 21 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG VPBANK 23 I. Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn của VPbank. 23 II. Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại VPbank. 23 1. Xây dựng chiến lược kinh doanh cụ thể và dài hạn trên cơ sở điều tra, nghiên cứu thị trường một cách khoa học, toàn diện và chi tiết. 23 2. Đa dạng hoá danh mục và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung cấp. 24 3. Đa dạng hoá hình thức huy động vốn 24 4. Nâng cao trình độ quản lý điều hành, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và mạng lưới phân phối sản phẩm dịch vụ. 26 KẾT LUẬN 27 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 28 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 29 LỜI MỞ ĐẦU Những thành tựu mà nền kinh tế Việt Nam đạt được trong những năm vừa qua có sự đóng góp không nhỏ của ngành ngân hàng,vốn được coi là huyết mạch,là thước đo trạng thái của nền kinh tế.Với vai trò quan trọng như vậy,trong tiến trình mở cửa,hội nhập chung của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỉ 21,ngành ngân hàng trong đó đặc biệt là các NHTMCP không thể đứng ngoài cuộc mà phải giữ vai trò tiên phong trong công cuộc phát triển kinh tế và xây dựng đất nước.Hòa mình vào xu thế đó,NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam đã và đang thay đổi diện mạo của mình,phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu,cố gắng nâng cao chất lượng hoạt động,đa dạng hóa các dịch vụ,sản phẩm cho khách hàng để tham gia vào thị trường mới với nhiều cạnh tranh và thách thức mới,với tinh thần chủ độn, sáng tạo cao.Có thể nói Vốn là yếu tố quyết định thúc đẩy sự phát triển và hội nhập của các ngân hàng nói chung và NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam nói riêng.Sau một thời gian thực tập tại phòng Nguồn vốn của NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam,với những kiến thức đã học và thực tế tại ngân hàng,em đã chọn đề tài “Hoạt động huy động vốn tại NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh” làm đề tài báo cáo thực tập. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị tại phòng Nguồn vốn của ngân hàng và sự hướng dẫn tận tình,chu đáo của thầy giáo Nguyễn Ngọc Hà đã giúp em hoàn thành báo cáo này. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Khái niệm ngân hàng thương mại và đặc điểm kinh doanh của ngân hàng thương mại Khái niệm ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng ra đời sớm nhất xét về mặt lịch sử ở các nước phương Tây.Cùng với sự phát triển của nền kinh tế,các chức năng,vai trò,đối tượng và phạm vi hoạt động kinh doanh của các NHTM ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp,do vậy mà ở các nước có rất nhiều quan niệm khác nhau về NHTM.Tuy nhiên,các nhà kinh tế học và luật gia ở các nước đều thừa nhận điểm chung là khái niệm NHTM được dùng để chỉ tổ chức làm chức năng thu nhận tiền gửi của công chúng và đem số tiền đó cho người khác vay để kiếm lời.Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997,sửa đổi năm 2003 đã định nghĩa về NHTM thông qua định nghĩa “ngân hàng” và “hoạt động ngân hàng”.Theo đó: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo tính chất và mục tiêu hoạt động,các loại hình ngân hàng gồm NHTM,ngân hàng phát triển,ngân hàng đầu tư,ngân hàng chính sách,ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi,sử dụng số tiền,sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Trong Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000 của chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại,khái niệm NHTM đã được đề cập trong điều 1 như sau: “NHTM là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước”.Như vậy,Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 và nghị định 49 đã bao quát được đầy đủ nội hàm và bản chất của NHTM.Về tư cách và tính chất loại hình doanh nghiệp,cả Luật Các tổ chức tín dụng 1997 và nghị định 49 đều coi NHTM là tổ chức hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng chứ không chỉ là tổ chức kinh doanh tiền tệ đơn thuần. Khái niệm NHTM theo qua điểm của pháp luật hay của các nhà kinh tế ở các quốc gia khác nhau không hoàn toàn giống nhau mặc dù có những điểm tương đồng.Theo luật của Pháp thì “NHTM là một xí nghiệp hay bất kì một cơ sở nào thường xuyên nhận tiền gửi từ công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức nào khác các khoản tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu,tín thác hay dịch vụ tài chính”.Tuy nhiên các định nghĩa trên xét về thực chất vẫn chưa thực sự là khái niệm rộng,bao quát được toàn bộ hình thức,nội dung,tính chất,đối tượng,phạm vi hoạt động của NHTM.Nhà kinh tế học người Mỹ Peter Rose đã đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ về NHTM.Theo ông “NHTM là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất,đặc biệt là tín dụng,tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”(Nguồn [6]).Cho dù các định nghĩa về NHTM ở mỗi quốc gia có khác nhau,nhưng nhìn chung lại,chúng ta thấy rằng bản chất của NHTM là: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi,sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán,thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác nhau vì mục tiêu lợi nhuận và sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế.Vì vậy,hoạt động ngân hàng rất đa dạng và phong phú về mặt nghiệp vụ cũng như các sản phẩm dịch vụ mà họ cung cấp,đồng thời hoạt động ngân hàng có tính chất bao trùm mang tính chất quyết định đến toàn bộ nền kinh tế. 2.Đặc điểm hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Với tư cách là trung gian tài chính,các NHTM giữ vai trò huyết mạch trong nền kinh tế và là thước đo trạng thái phát triển của nền kinh tế,chiếm vị trí quan trọng bậc nhất về quy mô vốn,tài sản và nội dung các nghiệp vụ.Nghiệp vụ kinh doanh của NHTM đa dạng và phong phú,nhưng nhìn chung có một số đặc điểm sau đây: Một là,các NHTM khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng,một mặt huy động và tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời từ trong dân cư,từ các thành phần kinh tế trong xã hội tạo nên nguồn vốn,mặt khác trên cơ sở nguồn vốn huy động đã hình thành,các NHTM cho các doanh nghiệp,tổ chức kinh tế,cá nhân-những người có nhu cầu về vốn để sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng-vay lại.Như vậy,với chức năng này,NHTM vừa là người đi vay,vừa là người cho vay. “Vay để cho vay” chính là một trong những phương thức kinh doanh của NHTM nhằm làm cầu nối giữa những đối tượng có tiền nhàn rỗi tạm thời chưa dùng đến nhưng vẫn muốn đồng tiền sinh lời với những đối tượng cần vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng mua sắm.Có thể thấy rằng thực chất hoạt động kinh doanh của NHTM được tiến hành trên cơ sở tiền của người khác,vốn của các NHTM chỉ chiếm một phần nhỏ trong hoạt động kinh doanh này.Do vậy,chỉ khi hoạt động thực sự có hiệu quả thì các NHTM mới có khả năng hoàn trả cả gốc và lãi các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi đã huy động. Hai là,hoạt động kinh doanh ngân hàng là hoạt động có tính rủi ro cao,như rủi ro tín dụng khi cung cấp các dịch vụ tín dụng cho khách hàng,ngân hàng hoàn toàn có khả năng mất vốn khi khách hàng làm ăn không hiệu quả,không trả được nợ,hoặc khi bị khách hàng lừa đảo,thực hiện chức năng trung gian tín dụng ngân hàng sẽ gặp rủi ro về lãi suất khi thị trường có sự biến động về lãi suất.Trong quá trình huy động,bao giờ các ngân hàng cũng có khe hở về kì hạn,các khoản huy động và các khoản cho vay đều có độ lệch nhất định về kì hạn.Ngoài ra,ngân hàng có thể gặp rủi ro về thanh khoản khi không cân đối được luồng tiền,có thể dẫn tới mất khả năng chi trả trong một thời điểm nhất định.Rủi ro về tỉ giá khi cung cấp các dịch vụ ngoại hối,rủi ro về chính sách của nhà nước khi có sự thay đổi chính sách liên quan đến bất kì một lĩnh vực nào cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh ngân hàng,và hàng loạt các rủi ro khác mà ngân hàng có thể gặp phải trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.Tất cả các rủi ro mà ngân hàng gặp phải đều có thể làm cho ngân hàng mất vốn hoặc giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Ba là,hoạt động kinh doanh ngân hàng có tính hệ thống cao,vì khi thực hiện chức năng thanh toán,các NHTM không chỉ dừng lại ở việc cung ứng các dịch vụ trung gian thanh toán,mà còn ở việc quản lí các phương tiện thanh toán.Khi tiến hành dịch vụ trung gian thanh toán,bằng các nghiệp vụ của mình,các NHTM đã tạo ra các công cụ lưu thông như thương phiếu,séc,thẻ thanh toán,..và độc quyền quản lí các công cụ này,thông qua đó tiết kiệm cho xã hội một lượng chi phí lưu thông đáng kể và góp phần đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển tiền tệ,lưu chuyển vốn,sản xuất và lưu thông hàng hóa.Như vậy,hoạt động của mỗi ngân hàng có liên quan chặt chẽ đến hoạt động của các ngân hàng khác.Vì vậy,chỉ một ngân hàng gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến cả hệ thống ngân hàng.Sự đổ vỡ của một ngân hàng cũng có thể kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống. Bốn là,hoạt động kinh doanh ngân hàng có tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới toàn bộ nền kinh tế bởi vì ngoài chức năng trung gian tín dụng,trung gian thanh toán,các NHTM còn cung cấp các dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác.Các dịch vụ tài chính mà ngân hàng cung cấp như tư vấn tài chính,tư vấn đầu tư,dịch vụ bảo hiểm,dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán,môi giới mua bán và lưu kí chứng khoán,quản lí danh mục đầu tư,..và các nghiệp vụ phái sinh cho nền kinh tế…Hơn thế nữa,cùng với sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng,các NHTM không ngừng cung cấp thêm các dịch vụ mới như dịch vụ thẻ,dịch vụ chuyển tiền,dịch vụ quản lí mua bán nợ,dịch vụ quản lí tài sản,dịch vụ kinh doanh địa ốc,các dịch vụ ngân hàng hiện đại như Mobile Banking, Internetbanking,..Chính vì vậy, chất lượng của các dịch vụ ngân hàng ảnh hưởng rất lớn và mang tính chất quyết định đến hoạt động của nền kinh tế. Khái niệm,đặc điểm,phân loại và vai trò của hoạt động huy động vốn tại các ngân hàng thương mại khái niệm về hoạt động huy động vốn Bản thân thuật ngữ “huy động vốn” đã nêu lên tương đối công việc trong công tác này.Trong nền kinh tế luôn tồn tại những người thừa vốn và những người thiếu vốn,có thể nói NHTM đóng vai trò điều hòa mâu thuẫn này bằng việc sử dụng các công cụ, các nghiệp vụ của mình để huy động các nguồn vốn trong xã hội. Thực chất,nghiệp vụ huy động vốn là các hoạt động thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của các cá nhân, tổ chức kinh tế, xã hội dưới dạng tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán,phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác,tạo nên một nguồn tài chính được ngân hàng sử dụng để kinh doanh sinh lời và trả lại một phần lợi nhuận này cho người gửi thông qua công cụ lãi suất. Các hình thức huy động vốn Nhận tiền gửi của khách hàng * Tài khoản tiết kiệm: đối tượng mở tài khoản tiết kiệm thường là những người có thu nhập thấp, muốn tiết kiệm tiền lâu dài hoặc cũng có thể những người có thu nhập cao muốn dành riêng một khoản tiền nào đó để chi dùng trong tương lai. Đối với loại tiền gửi này, các NHTM có thể sử dụng lâu dài nhưng lượng huy động được là không đáng kể. * Tiền gửi không kì hạn: là khoản tiền gửi vào ngân hàng không có sự thỏa thuận về thời hạn rút tiền,khách hàng có thể gửi vào hoặc rút ra bất cứ khi nào,rút ra một phần hay toàn phần theo yêu cầu và ngân hàng phải đáp ứng toàn bộ yêu cầu đó.Thực chất, đây là khoản tiền gửi dùng để đảm bảo trong thanh toán.Đối với loại này, chủ tài khoản được toàn quyền sử dụng số tiền trong phạm vi tiền gửi của mình, có quyền chuyển nhượng cho bất kì ai, bất kì thời gian nào.Khách hàng được sử dụng số tiền của mình bằng các phương tiện thanh toán dùng để chi trả như séc,ủy nhiệm chi,ủy nhiệm thu,chuyển tiền…Ngân hàng thực hiện trích tài khoản,trừ trường hợp chủ tài khoản vi phạm các quy định có liên quan. Với các tài khoản này, mục đích chính của người gửi là để thanh toán, chi trả. * Tiền gửi có kì hạn: là tiền gửi vào ngân hàng trên cơ sở thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời gian rút tiền.Về nguyên tắc, khách hàng chỉ có thể rút tiền khi đến hạn và được hưởng số tiền lãi trên số tiền gửi đó.Nhưng hiện nay,để thu hút vốn, các NHTM cho phép rút tiền trước thời hạn trong trường hợp cần thiết và khách hàng chỉ được hưởng lãi suất của tiền gửi không kì hạn.Do tính chất của loại tiền này khá ổn định nên ngân hàng có thể sử dụng một phần loại nguồn vốn này để cho vay trung và dài hạn.Nếu nguồn vốn này chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động sẽ tạo điều kiện thuận lợi chủ động cho ngân hàng trong quá trình kinh doanh.Vì thế,các NHTM thường đưa ra nhiều loại kì hạn nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng.Hiện tại,các NHTM áp dụng các loại tiền gửi có kì hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm, 2 năm…Với mỗi kì hạn khác nhau, ngân hàng áp dụng một mức lãi suất khác nhau. Thông thường thì thời hạn càng dài,lãi suất càng cao. Các NHTM thường khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn dài vì loại tiền này tương đối ổn định, ngân hàng cần tận dụng để tạo các nguồn vốn có tính ổn định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng trung và dài hạn, để huy động nguồn vốn này,ngân hàng cần chú trọng các yếu tố thuộc về khách hàng như:nhu cầu tiết kiệm, thu nhập, xu hướng tiết kiệm, các đặc tính về dân số,xã hội,tình hình kinh tế... Đi vay Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình,các NHTM có thể huy động bằng cách vay các tổ chức tín dụng khác thông qua thị trường nội địa_ngoại tệ liên ngân hàng.Việc thực hiện quan hệ tín dụng giữa các NHTM phải được tiến hành theo nguyên tắc “đi vay-cho vay” và phải được thỏa thuận trên cơ sở hợp đồng tín dụng, vốn vay phải đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố (tiền mặt tại chỗ và các giấy tờ có giá). Các NHTM đi vay chấp hành đầy đủ các nguyên tắc dự trữ bắt buộc và an toàn vốn,phải có tài khoản tiền gửi thanh toán hoạt động thường xuyên tại NHTW. Khi các NHTM vay mượn của nhau mà vẫn thiếu vốn hoặc khả năng thanh toán bị đe dọa, các NHTM thực hiện vay vốn tại NHTW để tạo thêm nguồn vốn bổ sung cho hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn của NHTW là nguồn vốn cuối cùng đảm bảo khả năng thanh toán bình thường cho các NHTM. * Vay từ ngân hàng trung ương: NHTW được coi là ngân hàng của ngân hàng,là người cho vay sau cùng của các NHTM.Quyền vay tiền tại NHTW của các NHTM khi thiếu hụt dự trữ hay thiếu vốn được xác định khi được NHTW cho phép thành lập. Khi NHTM thiếu tiền mặt, không đáp ứng được thanh khoản, mà lại rất khó vay ở thị trường tiền tệ trong khi các ngân hàng khác cũng đang rất thiếu vốn thì buộc phải tìm đến NHTW xin vay. Các phương pháp vay vốn từ NHTW phổ biến là vay chiết khấu,tái chiết khấu trái phiếu kho bạc mà các NHTM đã cho khách hàng vay chưa đáo hạn và các thương phiếu. * Vay trên thị trường liên ngân hàng: ở bất kì thời điểm nào cũng có những NHTM có vốn dự trữ dư thừa gửi tại NHNN, khoản dự trữ này không sinh lời nên họ sẵn sàng nhượng lại cho các ngân hàng khác sử dụng trong một thời gian nhất định.Trên thực tế, các NHTM sử dụng rất nhiều vốn vay trên thị trường liên ngân hàng để cho doanh nghiệp hay tổ chức kinh tế vay. * Vay trên thị trường: - Phát hành chứng chỉ tiền gửi: CDs (certificate of deposit) được phát hành khi ngân hàng cần vốn,khách hàng mua CDs không những được hưởng lãi mà còn có thể đem đi chiết khấu để nhận tiền mặt khi cần. CDs có ưu thế hơn tiền gửi bởi nó tăng tính năng động cho các tài sản của khách hàng,không những khách hàng thu được lãi mà có thể biến các tài sản thành tiền một cách dễ dàng với chi phí thấp nhất. CDs là hình thức khá mới ở Việt Nam và được các NHTM áp dụng thành công. - Phát hành trái phiếu: Trái phiếu là công cụ nợ dài hạn của ngân hàng, là hình thức huy động vốn trực tiếp của Nhà nước vào doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Thời hạn, chủng loại, phương thức phát hành rất đa dạng, phụ thuộc vào nhu cầu vay và thị trường. Lãi suất của trái phiếu thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm và kì phiếu.Trong hệ thống ngân hàng,trái phiếu thường được phát hành với quy mô lớn và đồng loạt trong cả hệ thống. Trái phiếu gồm các loại có ghi tên, không ghi tên, trả lãi trước, trả lãi sau, có thể chuyển nhượng và thừa kế,có thể ngân hàng mua lại theo thể thức chiết khấu, mua bằng VND hoặc USD với các loại mệnh giá khác nhau. Tuy nhiên,cho đến nay,khối lượng vốn huy động của NHTM qua hình thức này còn thấp so với các hình thức huy động vốn truyền thống khác. Để phát huy thế mạnh của hình thức này, đòi hỏi phải có thị trường vốn hoàn chỉnh. -Phát hành kì phiếu có mục đích Kì phiếu ngân hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân,chủ yếu thực hiện những kế hoạch kinh doanh của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh tế. Kì phiếu ngân hàng được phát hàng theo từng đợt và còn được gọi là kì phiếu có mục đích. Kì phiếu có mục đích gồm các loại có ghi tên,không ghi tên, có thể chuyển nhượng bằng VND và USD với các loại mệnh giá khác nhau.Đây là hình thức huy động có hiệu quả vì nó có lãi suất ưu đãi, thường cao hơn lãi suất tiết kiệm. Hơn nữa, nó biến động theo thời gian và tình hình cụ thể về nguồn vốn của ngân hàng. Tăng vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu được coi là thước đo sức mạnh tài chính của NHTM,thường bao gồm vốn góp ban đầu(vốn điều lệ) và lợi nhuận chưa chia.Tương ứng với mỗi loại hình vốn chủ sở hữu có các hình thức huy động riêng: Để tăng vốn góp ban đầu,ngân hàng yêu cầu bổ sung vốn điều lệ từ ngân sách nhà nước đối với NHTM quốc doanh,kêu gọi cổ đông đóng góp nếu là NHTM liên doanh,đối với các NHTMCP thì phát hành cổ phiếu ra thị trường để huy động trực tiếp nguồn vốn của thị trường. - Để tăng lợi nhuận chưa chia,ngân hàng lập thêm nhiều quỹ dự trữ tăng lượng vốn trích lập vào các quỹ dự trữ hiện có như quỹ dự trữ đặc biệt,quỹ đầu tư phát triển… 3. Vai trò ý nghĩa của hoạt động huy động vốn của các NHTM Nguồn vốn có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế,là yếu tố quyết định để Đảng và Nhà nước thực hiện các mục tiêu,chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,là tiềm lực cho các tổ chức kinh tế cũng như các NHTM mở rộng đầu tư sản xuất,nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và hội nhập kinh tế giúp các NHTMCP tăng vốn để mở rộng mạng lưới và phục vụ cho các hoạt động kinh doanh cũng như đáp ứng yêu cầu về cải tiến công nghệ,khi mà Việt Nam đang chính thức mở cửa thị trư
Luận văn liên quan