Đề tài Học thuyết về nền kinh tế hỗn hợp và sự vận dụng trong Việt Nam

Khoa học kinh tế đã có lịch sử từ lâu đời. Trước khi xuất hiện trường phái hiện đại đã có những trường phái khác nhau cùng tồn tại và phát triển, ví dụ như trường phái Keynes, trường phái cổ điển mới. Mỗi trường phái có những ưu và nhược điểm riêng, đến khi xuất hiện trường phái chính hiện đại là sự kết hợp chung lại của các trường phái, đó là sự kết hợp lý thuyết của trường phái Keynes, trường phái cổ điển và một số trường phái khác để đưa ra lý luận chung gọi là nền kinh tế hỗn hợp, tác giả tiêu biểu của trường phái này là Samuelson và tác phẩm này được trình bày thành hai phần: kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô.

doc9 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4068 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Học thuyết về nền kinh tế hỗn hợp và sự vận dụng trong Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận môn lịch sử các học thuyết kinh tế Đề tài: Học thuyết về nền kinh tế hỗn hợp và sự vận dụng ở Việt Nam Khoa học kinh tế đã có lịch sử từ lâu đời. Trước khi xuất hiện trường phái hiện đại đã có những trường phái khác nhau cùng tồn tại và phát triển, ví dụ như trường phái Keynes, trường phái cổ điển mới. Mỗi trường phái có những ưu và nhược điểm riêng, đến khi xuất hiện trường phái chính hiện đại là sự kết hợp chung lại của các trường phái, đó là sự kết hợp lý thuyết của trường phái Keynes, trường phái cổ điển và một số trường phái khác để đưa ra lý luận chung gọi là nền kinh tế hỗn hợp, tác giả tiêu biểu của trường phái này là Samuelson và tác phẩm này được trình bày thành hai phần: kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô. - Kinh tế vi mô: được dùng làm cơ sở cho sự hoạt động của các doanh nghiệp - Kinh tế học vĩ mô: phần này được dùng làm cơ sở cho các chính sách của Nhà nước. Trong tác phẩm kinh tế học này 2 tác giả có đề cập tới những lý luận sau: + Lý thuyết giới hạn của trường phái tân cổ điển + Lý thuyết về sự thăng bằng tổng quát của tác giả Leonwalvacic + Quy luật năng suất lao động bất tương xứng, Ricardo đã đề cập tới + Thuyết 3 nhân tố của sản xuất, tác giả Say + Lý thuyết về mô hình số nhân của Keynes Về mặt lịch sử lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp này xuất hiện từ cuối thế kỷ 19. Sau chiến tranh thế giới thứ 2 nó được một số tác giả ở Mỹ tiếp tục nghiên cứu và phát triển. Sau khoảng thời gian trên Samuelson lại phát triển thêm một bước nữa. Nếu như trường phái cổ điển và cổ điển mới say sưa với bàn tay vô hình và thăng bằng tổng quát, thì Samuelson lại chủ trương phát triển kinh tế dựa vào cả “hai bàn tay” tức là cơ chế thị trường tự do với các quy luật vốn có của nó và sự can thiệp của chính phủ. Samuelson cho rằng “điều hành một nền kinh tế mà không có chính phủ thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”. Dựa vào cơ chế thị trường có nghĩa là dựa vào bộ máy tự hoạt động của cung cầu, giá cả với môi trường cạnh tranh, lợi nhuận và các quy luật vận hành khách quan. Nhưng thực tế kinh tế thị trường vẫn có những khuyết tật, vẫn còn nhiều vấn đề mà tự nó không thể giải quyết được. Vì vậy Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế thông qua việc thiết lập pháp luật, xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, tác động vào việc phân bố tài nguyên, tác động vào việc phân bố thu nhập. Qua đó đảm bảo hiệu quả, công bằng và ổn định trong phát triển kinh tế. Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế để ngăn chặn khủng hoảng, thất nghiệp tạo việc làm đầy đủ, nhưng đồng thời phải giữ trong khuôn khổ khôn ngoan của cạnh tranh. Ngày nay “kinh tế hỗn hợp” đang thu hút sự quan tâm của các nhà kinh tế ở mọi trường phái và xu hướng khác nhau. Theo Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh sản xuất tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của một tổ chức kinh tế: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? Theo ông cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn mà đây là một trật tự kinh tế. Là một cơ chế tinh vi để hỗn hợp giữa người sản xuất và người tiêu dùng thông qua hệ thống giá cả. Nó là một phương tiện mà qua đó để tập hợp những suy nghĩ và hành động của hàng triệu cá nhân trong xã hội. “Một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác. Nó là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau, không có bộ não trung tâm nó vẫn giải quyết bài toán mà máy tính lớn nhất hiện nay cũng không thể giải nổi, không ai thiết kế ra nó. Nó tự xuất hiện và cũng như xã hội loài người, nó đang thay đổi”. Trên thị trường có thị trường hàng tiêu dùng, dịch vụ và thị trường các yếu tố sản xuất (lao động, đất đai, tư bản...) trong đó giá cả là phương tiện phát tín hiệu của xã hội, sự biến động của nó làm trạng thái cân bằng cung cầu biến đổi thường xuyên: kinh tế thị trường chịu sự điều khiển của hai ông vua. Người tiêu dùng bỏ phiếu bằng đô la chọn điểm nằm trên ranh giới khả năng sản xuất. Thứ hai là kỹ thuật hạn chế người tiêu dùng vì nền sản xuất không vượt giới hạn khả năng sản xuất. Thị trường đóng vai trò hòa giải giữa sở thích người tiêu dùng và hạn chế kỹ thuật. Bàn tay vô hình đôi khi dẫn nền kinh tế tới sai lầm và các khuyết tật. Ô nhiễm môi trường, độc quyền phá hoại cạnh tranh, khủng hoảng thất nghiệp, phân phối bất bình đẳng. Do đó cần phối hợp với “bàn tay hữu hình” của thuế khóa, chỉ tiêu và luật lệ của chính phủ. Trong cơ chế thị trường nhất thiết phải có 3 yếu tố là: hàng hóa, người bán, và người mua. Hàng hóa: gồm ba loại là: Hàng tiêu dùng, các dịch vụ, các yếu tố của sản xuất. Gồm ba yếu tố (lao động, đất đai, tư bản). Những hàng hóa này làm hình thành nên thị trường hàng tiêu dùng (thị trường đầu ra) và thị trường các yếu tố sản xuất (thị trường đầu vào). Đối với hàng hóa có giá cả khi có nhiều người mua thì người bán sẽ tăng giá. Do đó dẫn tới việc tăng cung. Người bán và người mua trên thị trường luôn luôn tác động lẫn nhau để xác định 2 yếu tố là: giá cả hàng hóa và số lượng hàng hóa được bán trên thị trường. Theo Samuelson trong cơ chế thị trường có hệ thống tự tạo ra sự cân đối giữa giá cả và sản xuất giá cả trên thị trường là tín hiệu xã hội để giúp cho người sản xuất trả lời ba câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Cơ chế thị trường không phải bao giờ cũng hoàn toàn ưu việt mà nó còn chứa đựng những yếu tố bất lợi và đó chính là những yếu tố để chính phủ thể hiện vai trò của mình trong quá trình quản lý nền kinh tế. Cơ chế thị trường dưới sự tác động của bàn tay vô hình thường dẫn tới những khuyết tật sau: - Do việc chạy theo lợi nhuận tối đa, cho nên các doanh nghiệp thường hay làm ô nhiễm môi trường phá hoại cân bằng sinh thái. - Cơ chế thị trường dễ dẫn tới sự độc quyền như vậy nó phá vỡ cơ chế cạnh tranh tự do ị nó làm mất động lực cho sự phát triển kinh tế. - Cơ chế thị trường gằn liền với các căn bệnh như: khủng hoảng, thất nghiệp, đầu cơ, hàng giả, trốn thuế. - Cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo. Nguồn gốc là sự phân phối thu nhập không công bằng. Chính do những khuyết tật trên, cần phải có sự kết hợp giữa bàn tay vô hình với sự can thiệp của chính phủ. Để khắc phục được những khuyết tật trên của cơ chế thị trường, cần có vai trò can thiệp của chính phủ, theo Samuelson vai trò đó thể hiện ở bốn chức năng cơ bản sau: - Chính phủ phải xây dựng được hệ thống pháp luật để phục vụ cho việc kinh doanh tạo được hành lang pháp lý cho kinh doanh. Cụ thể bao gồm các vấn đề cơ bản sau: + Quản lý được tài sản của các doanh nghiệp + Quy định trách nhiệm các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế, nghĩa vụ doanh nghiệp đối với xã hội (thuế...) - Sửa chữa, khắc phục những thất bại của thị trường, nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động có hiệu quả. Để làm được điều đó cần phải giải quyết bốn vấn đề sau: + Ban hành luật chống độc quyền để duy trì được sự cạnh tranh, làm tăng hiệu quả nền kinh tế. + Ngăn chặn được những tác dụng xấu từ bên ngoài làm ảnh hưởng tới tính hiệu quả của thị trường. Xảy ra trong hai trường hợp: Doanh nghiệp làm ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng đến đời sống của mọi người, nhưng không phải đền bù một khoản thiệt hại nào. Khi dân cư trong vùng được hưởng một loại phúc lợi nào đó mà không phải trả tiền. + Chính phủ phải đảm nhiệm việc sản xuất các loại hàng hóa công cộng như: quốc phòng, an ninh, chống thiên tai. + Thuế: Là nguồn thủ chủ yếu của ngân sách nhà nước, bảo đảm chi tiêu của chính phủ và việc chi tiêu đó nhằm để phục vụ các lợi ích công cộng. Cho nên chính phủ là người ban hành các chính sách về thuế và thực hiện việc thu thuế cũng như kiểm tra giám sát việc thực hiện các chính sách thu thuế. - Đảm bảo sự công bằng: Cơ chế thị trường luôn luôn dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo bất bình đẳng. Vì vậy chức năng của chính phủ là phải có chính sách phân phối thu nhập để phân phối lại thu nhập nhằm giảm bớt sự chênh lệch giữa các thành viên trong xã hội. Nhà nước sử dụng một số công cụ: Thuế thu nhập, chính phủ xây dựng một hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp cho những người có hoàn cảnh khó khăn, thất nghiệp, ốm đau... Chính phủ còn thực hiện trợ cấp cho những người có thu nhập thấp: như bán nhà với giá rẻ, cho bảo hiểm y tế... - ổn định kinh tế vĩ mô: Một khuyết tật lớn của cơ chế thị trường là chu kỳ kinh doanh dẫn đến những cuộc khủng hoảng mang tính chu kỳ. Vì vậy, chính phủ cần có những biện pháp để kiểm soát các chu kỳ đó, theo Samuelson cần sử dụng công cụ sau: + Sử dụng quyền lực về tiền tệ: Đó là việc Nhà nước điều tiết và lưu thông tiền tệ, điều khiển hoạt động của hệ thống Ngân hàng, để thông qua đó xác định mức lãi suất và xác định các điều kiện tín dụng. + Nhà nước sử dụng quyền lực về tài chính: Đó là chính phủ có quyền đánh thuế, có quyền ban hành các luật thuế và mức thuế khác nhau. Chính phủ có thể sử dụng ngân sách của mình để chi tiêu cho những mục đích đã được xác định trước. Để thực hiện các chức năng kinh tế nêu trên, thực tế chính phủ đã phải tiến hành sự lựa chọn. Sự lựa chọn này của chính phủ chỉ thoả mãn một cách tương đối nhu cầu của các cá nhân. Vì vậy sự lựa chọn của chính phủ cũng có thể đúng, cũng có thể sai. Do đó sự can thiệp của chính phủ có thể không thực sự mang lại hiệu quả. Vì vậy theo Samuelson cần thiết phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ chế thị trường với vai trò điều tiết kinh tế của chính phủ để điều hành nền kinh tế nói chung. Đó chính là cơ chế hỗn hợp, trong đó cơ chế thị trường để xác định giá cả, sản lượng bao nhiêu, còn về phần chính phủ điều tiết nền kinh tế bằng pháp luật, bằng chi tiêu của ngân sách, bằng thuế thu được từ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất. Để thấy rõ được cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta, quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, trước hết cần ta cần thấy được những hạn chế của cơ chế cũ. Cơ chế quản lý kinh tế cũ ở nước ta là cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp, có những đặc trưng chủ yếu sau đây: - Quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện ở việc chi tiết hóa quá đáng các nhiệm vụ do Trung ương giao cho bằng một hệ thống các pháp lệnh từ trên xuống dưới. - Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì với các quyết định của mình. - Coi thường quan hệ hàng hóa - tiền tệ và hiệu quả quản lý kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hóa bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thể hiện dưới các hình thức, bao cấp qua giá, chế độ cung cấp và cấp phát vốn của ngân sách mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn. - Từ những đặc điểm trên dẫn đến một cách không tránh khỏi bộ máy quản lý rất cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không theo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu bao cấp, cửa quyền. Cơ chế quan liêu bao cấp đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên nhân của sự thất bại của cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp là ở chỗ cơ chế quản lý kinh tế được xác lập dựa trên sự phủ nhận quy luật khách quan: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Với tính chất và trình đồ của lực lượng sản xuất của Việt Nam trước đây cũng như bây giờ thì quan hệ sản xuất phù hợp với nó chưa thể là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa – quan hệ sản xuất được xác lập trong cơ chế cũ. Chính vì vậy, cơ chế thị trường với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên cơ chế đó không phải là cơ chế hoàn hảo cho mọi nền kinh tế, trong đó có nền kinh tế của Việt Nam. Vì vậy, chính phủ cần thể hiện đúng vai trò của mình trong quá trình quản lý nền kinh tế. Như vậy, đồng thời với việc chuyển nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế hàng hóa giản đơn, co hẹp sang nền kinh tế hàng hóa theo đúng nghĩa của nó, chúng ta cũng phải chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Thực tế của quá trình chuyển đổi kéo dài gần hai mươi năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của việc thiết lập nền kinh tế hàng hoá được quản lý theo cơ chế thị trường ở nước ta. Quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã phát huy được những mặt tích cực sau: + Khuyến khích mọi tiềm năng của các chủ thể trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Nhờ đó mà động viên được các nguồn lực của xã hội và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực đó, thúc đẩy sự ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất và phát triển nền kinh tế hàng hóa. + Nhờ thị trường có thể thỏa mãn nhu cầu về hàng ngàn vạn loại sản phẩm khác nhau cho tiêu dùng cá nhân và cho sản xuất. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nước thực hiện phải cần một khối lượng lớn. + Thị trường luôn linh hoạt, có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi làm thích ứng kịp thời khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu. Những kết quả trên có thể được gói gọn qua các chỉ tiêu kinh tế xã hội. Bảng dưới đây mô tả các chỉ tiêu đó: Chỉ tiêu Năm 1995 Năm 1997 Năm 2000 GDP (tỷ đồng) 195.567 231.264 273.582 Tỷ lệ tăng trưởng GDP (%) 8,2 6,8 Xuất khẩu (triệu đô la Mỹ) 5.198 9.145 14.448 Những chỉ tiêu trên tuy chưa thực chi tiết những cũng phần nào nói lên những tiến bộ vượt bậc trong nền kinh tế cũng như cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam. Ví dụ, trước năm 1986, nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam không đủ cung ứng cho nhu cầu trong nước, hàng năm chính phủ phải nhập khẩu một lượng lớn lương thực để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, thì đến nay Việt Nam đã là nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Sản xuất đã đáp ứng đủ tiêu dùng và có tích luỹ. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam cũng không tránh khỏi những mặt hạn chế. Đó là: + Mục đích của doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, do đó họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, vì vậy xã hội sẽ phải chịu một khoản phụ phí do khai thác khó khăn hơn. Có thể gây ô nhiễm không khí và nguồn nước mà xã hội phải gánh chịu. + Cơ chế thị trường gây ra sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, sự bất bình đẳng lớn. + Một nền kinh tế do thị trường điều tiết, khó tránh khỏi những thăng trầm, sự khủng hoảng kinh tế. Tóm lại, do cơ chế thị trường có những khuyết tật của nó mà Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế tuy nhiên mức độ khác nhau ở mỗi nước. Sự can thiệp vào kinh tế đó nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội và giải quyết những vấn đề xã hội mà cơ chế thị trường không làm được. Như vậy, nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường nhưng có sự tham gia quản lý của nhà nước. ở Việt Nam, nền kinh tế hàng hoá đã và đang từng bước được xác lập và đi kèm với nó là cơ chế quản lý dựa trên những quy luật thị trường kết hợp với vai trò quản lý của nhà nước với mục đích phát huy tối đa tính ưu việt của cơ chế thị trường, đồng thời hạn chế những khuyết tất mà cơ chế thị trường mắc phải. Nhà nước đảm bảo phát huy mọi tiềm năng sẵn có của tất cả các chủ thể trong nền kinh tế, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, hạn chế độc quyền, đảm bảo nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng XHCN. Đảm bảo thực hiện những mục tiêu xã hội.
Luận văn liên quan