Đề tài Khảo sát hiện trạng sử dụng nguồn lợi đầm Ô Loan và đề xuất một số giải pháp quản lý bền vững

Việt Nam là quốc gia có bờ biển trải dài hơn 3260 km cùng với các hệ thống sông ngòi trong nội địa rộng lớn, đã tạo nên nguồn lợi thủy sản vô cùng đa dạng và phong phú. Đây chính là các yếu tố tạo nên tầm quan trọng của việc phát triển ngành thuỷ sản. Nhờ công cuộc đổi mới và các cải cách về thị trường, ngành thuỷ sản trong những năm gần đây đều đạt tốc độ tăng trưởng hằng năm từ 5 – 12% về sản lượng, chính vì thế, đã góp phần cải thiện tình hình kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy sinh kế bền vững và tạo việc làm cho cư dân các khu vực nông thôn. Thuỷ sản thực sự là một phần không thể thiếu trong tiến trình phát triển của Việt Nam. Nếu so sánh với canh tác lúa thông thường, các sản phẩm từ hoạt động sản xuất thuỷ hải sản đem lại nguồn thu nhập cao hơn cho các hộ gia đình nông thôn đồng thời cũng làm phong phú chế độ dinh dưỡng của các gia đình [7]. Theo ước tính, có rất nhiều người đã và đang sống nhờ phần lớn vào các hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản ở hệ thống đầm phá. Tuy nhiên, chính những hoạt động này lại đang tạo ra một sức ép đáng kể lên hệ thống sinh thái môi trường đầm phá và các nguồn tài nguyên thiên nhiên gắn liền với nó. Đầm Ô Loan thuộc huyện Tuy An tỉnh Phú Yên, một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ với diện tích tự nhiên khoảng 1570 ha, nổi tiếng với nguồn lợi thủy sản như tôm, cá, sò huyết, cua ghẹ, hàu,. Từ những năm 1990 khi phong trào nuôi tôm phát triển mạnh đã có trên 360 ha ao đìa nuôi tôm, đã tạo ra lượng sản phẩm thủy sản lớn cho xã hội, tạo thêm việc làm góp phần tăng thêm thu nhập cho một số bộ phận ngư dân. Tuy nhiên, các ao đìa nuôi tôm hầu hết được xây dựng tự phát nên đã gây tác động ảnh hưởng xấu đến cảnh quan môi trường và hệ sinh thái đầm [13]. Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Tuy An, những năm gần đây, đã có hai lần xảy ra ô nhiễm nghiêm trọng làm cho môi trường đầm bị xuống cấp, cá chết hàng loạt. Lần thứ nhất vào tháng 5 năm 1998, lần thứ 2 vào tháng 5 năm 2010, sau mỗi lần như vậy nguồn lợi thủy sản ở đây bị suy giảm đáng kể, người làm nghề khai thác thì không có thu nhập, người nuôi trồng thủy sản thì gặp nhiều bất lợi do môi trường nuôi không đảm bảo, dịch bệnh đối với thủy sản diễn biến phức tạp. Nhiều người cho biết trước đây thu nhập của họ do nghề đánh bắt, nuôi trồng thủy sản trên đầm mang lại rất cao nhưng hiện nay thu nhập đã bị giảm sút đi [2; 13]. Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tế trên tôi chọn đề tài: “Khảo sát hiện trạng sử dụng nguồn lợi đầm Ô Loan và đề xuất một số giải pháp quản lý bền vững ” nhằm đánh giá thực trạng khai thác và sử dụng nguồn lợi, tìm ra các nguyên nhân gây suy thoái đầm và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp quản lý hiệu quả góp phần khôi phục lại nguồn lợi thủy sản.

doc46 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2522 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khảo sát hiện trạng sử dụng nguồn lợi đầm Ô Loan và đề xuất một số giải pháp quản lý bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Việt Nam là quốc gia có bờ biển trải dài hơn 3260 km cùng với các hệ thống sông ngòi trong nội địa rộng lớn, đã tạo nên nguồn lợi thủy sản vô cùng đa dạng và phong phú. Đây chính là các yếu tố tạo nên tầm quan trọng của việc phát triển ngành thuỷ sản. Nhờ công cuộc đổi mới và các cải cách về thị trường, ngành thuỷ sản trong những năm gần đây đều đạt tốc độ tăng trưởng hằng năm từ 5 – 12% về sản lượng, chính vì thế, đã góp phần cải thiện tình hình kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy sinh kế bền vững và tạo việc làm cho cư dân các khu vực nông thôn. Thuỷ sản thực sự là một phần không thể thiếu trong tiến trình phát triển của Việt Nam. Nếu so sánh với canh tác lúa thông thường, các sản phẩm từ hoạt động sản xuất thuỷ hải sản đem lại nguồn thu nhập cao hơn cho các hộ gia đình nông thôn đồng thời cũng làm phong phú chế độ dinh dưỡng của các gia đình [7]. Theo ước tính, có rất nhiều người đã và đang sống nhờ phần lớn vào các hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản ở hệ thống đầm phá. Tuy nhiên, chính những hoạt động này lại đang tạo ra một sức ép đáng kể lên hệ thống sinh thái môi trường đầm phá và các nguồn tài nguyên thiên nhiên gắn liền với nó. Đầm Ô Loan thuộc huyện Tuy An tỉnh Phú Yên, một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ với diện tích tự nhiên khoảng 1570 ha, nổi tiếng với nguồn lợi thủy sản như tôm, cá, sò huyết, cua ghẹ, hàu,... Từ những năm 1990 khi phong trào nuôi tôm phát triển mạnh đã có trên 360 ha ao đìa nuôi tôm, đã tạo ra lượng sản phẩm thủy sản lớn cho xã hội, tạo thêm việc làm góp phần tăng thêm thu nhập cho một số bộ phận ngư dân. Tuy nhiên, các ao đìa nuôi tôm hầu hết được xây dựng tự phát nên đã gây tác động ảnh hưởng xấu đến cảnh quan môi trường và hệ sinh thái đầm [13]. Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Tuy An, những năm gần đây, đã có hai lần xảy ra ô nhiễm nghiêm trọng làm cho môi trường đầm bị xuống cấp, cá chết hàng loạt. Lần thứ nhất vào tháng 5 năm 1998, lần thứ 2 vào tháng 5 năm 2010, sau mỗi lần như vậy nguồn lợi thủy sản ở đây bị suy giảm đáng kể, người làm nghề khai thác thì không có thu nhập, người nuôi trồng thủy sản thì gặp nhiều bất lợi do môi trường nuôi không đảm bảo, dịch bệnh đối với thủy sản diễn biến phức tạp. Nhiều người cho biết trước đây thu nhập của họ do nghề đánh bắt, nuôi trồng thủy sản trên đầm mang lại rất cao nhưng hiện nay thu nhập đã bị giảm sút đi [2; 13]. Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tế trên tôi chọn đề tài: “Khảo sát hiện trạng sử dụng nguồn lợi đầm Ô Loan và đề xuất một số giải pháp quản lý bền vững ” nhằm đánh giá thực trạng khai thác và sử dụng nguồn lợi, tìm ra các nguyên nhân gây suy thoái đầm và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp quản lý hiệu quả góp phần khôi phục lại nguồn lợi thủy sản. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU Khái niệm và vai trò của đầm phá 1.1.1. Khái niệm của đầm phá Đầm phá là một dạng thủy vực của đới biển ven bờ, được tách khỏi biển nhờ kiểu tích tụ bờ cát chắn phía ngoài, ôm lấy một vực nước nông phía trong. Các phá nhận nước ngọt từ sông, suối trước khi ra biển và quan hệ trực tiếp với biển bằng cửa riêng của mình cũng được thừa nhận như các cửa sông điển hình [12]. 1.1.2. Vai trò của đầm phá Đầm phá là một vùng có vị trí phân bố rất đặc trưng, nó phân bố tại các lưu vực sông, các vùng cửa sông ven biển, môi trường sinh thái của hệ đầm phá thực chất cũng chính là những giá trị không tính toán, định lượng được. Tuy vậy, giá trị của nó có thể cao hơn, quan trọng hơn nhiều các giá trị tài nguyên cụ thể được xác định và khai thác trực tiếp. Chính vì vậy, nó có vai trò rất lớn trong tự nhiên và đời sống con người. 1.1.2.1. Vai trò của đầm phá với tự nhiên a. Cân bằng tự nhiên và sinh thái ven bờ Xét về tổng thể, vùng đầm phá là một hệ đệm giữa biển và lục địa, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với cân bằng tự nhiên và sinh thái ven bờ. Sự tồn tại của vùng đất ngập nước ảnh hưởng và tác động đến vi khí hậu khu vực, chế độ thủy động lực, phân bố và bồi lắng trầm tích ven bờ, lưu giữ và cung cấp dinh dưỡng, nguồn giống ra biển, tạo nơi cư trú, sinh đẻ cho các thủy sinh trên biển, cho một số loài sinh vật và chim trú đông di cư theo mùa trên quy mô rộng lớn. Diện tích lãnh thổ có quan hệ mật thiết với sinh thái và môi trường đầm phá. Đó là những mối quan hệ về giao thông, thủy lợi, nghề cá, nông nghiệp, lâm nghiệp,… Sự biến đổi về khí hậu và thiên tai: nguồn nước ngầm, ngập lụt, nhiễm mặn, vi khí hậu, nơi sinh sống và định cư của số đông dân cư ven biển, là nơi cần đầu tư lớn về xây dựng cơ sở hạ tầng [6]. Đầm phá có chức năng cực kỳ quan trọng về môi trường, liên quan đến cuộc sống dân sinh, kinh tế của cả một cộng đồng dân cư rộng lớn. Đầm phá là một hồ điều hòa khổng lồ nằm giữa vùng đồng bằng lãnh thổ có khí hậu khắc nghiệt, có tác dụng điều tiết vi khí hậu khu vực theo hướng thuận lợi cho cuộc sống. Nhờ có nó, đã hạn chế rất nhiều khả năng gây ngập lụt khu vực và những tác hại của nước dâng. Khi có bão, thường có mưa lớn dồn nước ở thượng nguồn về, đồng thời nước dâng từ thủy triều biển cũng tràn vào. Đầm phá là vùng chứa cả nước lũ thượng nguồn, cả nước dâng từ biển, làm giảm rất nhiều khả năng ngập lụt cho đồng bằng. Vùng đầm phá có tác dụng lớn đến duy trì lượng nước ngầm vùng đồng bằng ven rìa, có tác dụng tốt với hệ sinh thái đồng ruộng và duy trì nguồn nước ngầm sinh hoạt cho nhân dân.       Đối với vùng biển ven bờ, vùng đầm phá có chức năng làm sạch môi trường. Bùn cát hoặc các chất gây ô nhiễm từ lục địa phần lớn rơi lắng và được lưu giữ trong đầm phá trước khi đưa ra biển. Đây là nơi tích tụ chôn vùi các vật chất thải, dễ bị nhạy cảm, tổn hại do ô nhiễm từ lục địa, nhưng chính nhờ đó mà bảo vệ cho môi trường biển phía ngoài được trong sạch [6; 7]. b. Thủy văn Vùng đầm phá chịu tác động chủ yếu chế độ thủy văn từ biển, nhưng hàng năm phải chịu tác động lớn từ nguồn nước ngọt nội địa đổ ra đặc biệt là mùa mưa lụt. Mức độ ảnh hưởng lớn được thể hiện trong việc bồi lắng tích tụ phù sa, sự xâm thực do dòng chảy, triều cường. Đầm phá còn có những tác dụng đáng kể trong việc phân tán bớt năng lượng của sóng, gió, thủy triều [7]. 1.1.2.2. Vai trò của đầm phá với con người a. Phát triển kinh tế xã hội Trong các vai trò cân bằng tự nhiên và sinh thái ven bờ và vai trò bảo vệ thì đầm phá có vai trò cực kỳ to lớn đối với phát triển dân sinh, kinh tế khu vực. Một bức tranh dân sinh, kinh tế sẽ hoàn toàn khác nếu không còn tồn tại vùng đất ngập nước của đầm phá. Cư dân đầm phá có nhiều nét riêng, độc đáo về tập quán sinh hoạt, phương thức và ngư cụ đánh bắt thủy sản, lễ hội,... Cũng từ vùng đầm phá này đã hình thành kinh tế đầm phá trực tiếp liên quan đến cuộc sống của hàng vạn người dân, có quan hệ với lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thủy lợi, giao thông,… của cả một khu vực [6; 7]. b. Đảm bảo môi trường sống Vùng đầm phá là một kho dinh dưỡng giàu có ở một vùng ven bờ. Dinh dưỡng vô cơ trong nước và nền đáy giàu hơn phía ngoài biển hàng chục, hàng trăm lần. Đó là sự tích lũy, lưu giữ dinh dưỡng từ lục địa qua các con sông chuyển ra. Nhờ tồn tại như một hệ sinh thái độc lập ven bờ, gồm nhiều phụ hệ, vùng đầm phá lưu giữ và tạo một chu trình vật chất khép kín, làm giàu và xuất khẩu dinh dưỡng ra vùng biển ven bờ. Môi trường nước mặn lợ thay đổi theo mùa và sự có mặt đa dạng môi trường sống là điều kiện thuận lợi cho quá trình cư trú, sinh sản theo mùa của nhiều đối tượng tôm, cá và chim nước. Sự phong phú của môi trường sống như cửa sông, đầm lầy, thảm cỏ biển, vùng đáy bùn, đáy cát,... đã tạo nên đa dạng sinh học cao và bảo vệ sinh vật trước những biến đổi bất lợi của tự nhiên và sự khai thác quá mức của con người [6; 10]. c. Sản xuất và cung cấp Với tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, đầm phá cung cấp cho con người nhiều loại sản vật, tạo điều kiện phát triển thủy sản, nông nghiệp, giao thông, du lịch và hình thành kinh tế đầm phá với những tính chất đặc thù, cơ cấu liên ngành và tính hoàn chỉnh của mình [4]. d. Bảo vệ Vùng ven biển Việt Nam thường xuất hiện nhiều thiên tai như bão, lụt, nước dâng trong bão. Nhờ có vai trò điều hòa, vùng đất ướt đầm phá có chức năng bảo vệ cộng đồng dân cư xung quanh, hạn chế rất đáng kể những thiệt hại về người và tài sản do thiên tai gây ra. Đầm phá là màng đệm giữa biển và đồng bằng, ngăn mặn xâm nhập sâu vào lục địa. Nhờ có nó, nước biển và nước ngọt được pha trộn, trao đổi thành nước nhạt hơn trước khi theo áp lực triều lấn theo đáy các lòng sông ngược về phía lục địa. Cũng do là một vực nước kín, có cửa thông ra biển, mỗi khi có bão hay giông tố làm biển động, đầm phá là nơi neo đậu, tránh trú an toàn cho hàng trăm thậm chí hàng ngàn tàu thuyền lớn nhỏ, nhờ đó tránh được nhiều thiệt hại về tài sản cũng như tính mạng cho con người [10; 11]. e. Đảm bảo an ninh quốc phòng Ngoài các vai trò trên thì vùng đầm phá còn có vai trò về an ninh quốc phòng. Đây là một vị trí phòng thủ trọng yếu ven biển, là nơi diễn ra nhiều cuộc đổ quân, giao tranh trong lịch sử, là những căn cứ thủy quân trong các thời kỳ kháng chiến cũng như phòng thủ trong thời bình [10]. 1.2. Tình hình khai thác và sử dụng đầm phá trên Thế giới và Việt Nam 1.2.1. Tình hình khai thác và sử dụng đầm phá trên thế giới Hệ thống đầm phá phân bố chủ yếu ở các cửa sông, ven biển nó đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra hệ sinh thái, bảo vệ cộng đồng và cung cấp một lượng thủy sản dồi dào, giải quyết và tạo việc làm cho phần lớn lao động tại đây. Tại khu nghỉ mát Palmetto Dunes Oceanfront, vào những năm 1970, ba dặm dài bãi biển ở đây gần như bị biến mất khi thủy triều lên. Nhưng ngày nay, tại đây đã có nhiều dịch vụ phục vụ cho du lịch sinh thái, nhờ vào sự nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới chuyển đổi bằng cách nạo vét lượng lớn cát sau đó vận chuyển cát đổ ra các bãi biển phía ngoài, để tạo ra hệ thống đầm phá đầm nước mặn. Mặc dù chuyển một khu nghỉ mát nhưng vẫn bảo tồn được hệ sinh thái, luôn được kiểm soát thủy triều để giữ cho nước sạch và vẻ hoang sơ vốn có của nó [14]. Tại The Douala Coastal Lagoon Complex, Cameroon:Cameroon, các đầm phá ven biển Complex Douala Douala is the economic centre of the Republic of Cameroon.là vùng đất thấp phía nam của cộng hòaCameroon within the depositional sedimentary formations. Cameroon. Except for the rocky shores in aỞ đây còn population growth, as it is richly endowed with aquatic and terrestrial resources within thelà nơi có một hệ đa dạng sinh học cao với nguồn lợi thuỷ sản brackish and saline water environments.nước lợ và nước mặn. Thời gian gần đây The Cameroon coastal lowlands is located withinThe studyThis locality under the influence of increased magnitude of global environmentaldo chính quyền đã chuyển đổi cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp tại đây, đã làm increased discharge of effluents.tăng xả nước thải ra đầm. Mặt khác vùng biển này là nơi chịu ảnh hưởng của cường độ triều cường gia tăng. Hậu quả đã biến khu vực này phải chịu một thảm họa, vì thường xuyên xảy ra xói mòn [16]. Tại Hilton Head Island, hệ thống đầm phá tại đây đã được phát triển bằng cách nạo vét cát từ bên trong và đặt nó trên bãi biển tạo ra các cồn cát.n Nó đã tạo ra một khuôn viên đẹp, cũng như cung cấp một loạt các tiện nghi nghỉ dưỡng cho dân cư trong khu phố của Palmetto Dunes. Mô hình study noted “the area comes under strong influence exerted by tidal movements, episodic: Wouri- the main river system feeding the lagoon far inland, thus giving its greatest spatialhệ thống đầm phá trong Palmetto Dunes là mô hình duy nhất trên thế giới đã thành công khi kết hợp mô hình du lịch và bảo vệ hệ sinh thái đầm phá. It is made up of 11 miles of interconnecting lagoons and waterways that wind throughout PD, making it the largest of its kind.Nó được tạo thành từ mười một dặm của đầm phá nổi và đường thủy.The lagoon system was developed by dredging the sand from inside the property and placing it on the beachfront creating the dunes. Vì được nối dài như vậy nênThe lagoons are fed from Broad Creek through manual flood gates.Sea life thrive in these waters, so don't be surprised if you see your neighbor pull up a crab pot full of shrimp and blue crabs. khi tham quan và nghỉ dưỡng tại đầm phá này ta sẽ nhận thấy được tại đây có nhiều tôm, cua, cá và nhiều loại chim,… Tại đây, cTidal gates were installed 30 years ago in two spots to control the tides and flush the lagoons to keep the water clean and pristine.ửa thủy triều đã được cài đặt một cách có hệ thống ở hai địa điểm để kiểm soát triều cường và xả nước từ đầm phá để giữ cho nước sạch [15]. Tại Ấn Độ, Các cửa sông nối liền với nhau bởi các hệ thống sông Banana của Không Motor Zone, sông Ấn Độ và đầm phá Mosquito tạo nênIts abundance of wildlife and game fish are far reaching. sự phong phú của động vật hoang dã và các loại cá từ các nơi đến đây rất đa dạng. Khu vực này nổi tiếng nhất với cá cảnh Redfish có kích thước khổng lồ. Sight fishing for Redfish and Spotted Sea Trout here is a year round adventure.Tại đây,Springtime fishing for Redfish offers clear waters, cool temperatures, and large schools of Redfish gathering on pristine grass flats. mùa xuân nhiệt độ mát mẻ, thích hợp cho việc câu cá. Ngoài ra, ở đây còn cung cấp lượng lớn nước sạch cho khu vực nàySummer time fishing starts early with tailing Redfish in skinny water and schools of Trout, Ladyfish, Jack Crevalle and an occasional Tarpon found feeding on mullet and glass minnows.. Chính nhờ làm được như vậy mà nơi đây đã thu hút được một lượng lớn du khách tham quan du lịch, đồng thời còn giải quyết được một lượng lớn lao động tại đây bằng các dịch vụ phục vụ cho du khách [14]. 1.2.2. Tình hình khai thác và sử dụng đầm phá tại khu vực Nam duyên hải miền Trung Cũng như trên Thế giới thì tại Việt Nam hệ thống đầm phá đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Tuy nhiên, ngày nay do tác động của thiên tai và nhu cầu ngày càng cao của con người mà những năm gần đây cảnh quan, môi trường sinh thái đầm phá ở Việt Nam đã và đang bị suy giảm trầm trọng. Đầm phá bị tác động mạnh do sức ép gia tăng dân số, do nhu cầu thưởng thức thủy sản tươi sống ngày càng gia tăng, phát triển nuôi trồng thủy sản một cách ồ ạt, thiếu quy hoạch và sự buông lỏng quản lý của các cấp chính quyền địa phương,… Cụ thể tình hình đầm phá ở khu vực này như sau: 1.2.2.1. Tỉnh Thừa Thiên Huế Tỉnh Thừa Thiên Huế có hệ thống đầm phá Tam Giang - Cầu Hai với diện tích 22000 ha. Đây là vùng nước lợ tiêu biểu cho cả quốc gia và khu vực Đông Nam Á, có giá trị cao về đa dạng sinh học với nhiều loại sinh vật đặc hữu, quý hiếm và là nơi thuận lợi cho việc tổ chức nhiều loại hình du lịch khác nhau. Ngoài ra, tại đây còn có tần suất đa dạng sinh học rất cao, vì khu vực này là nơi giao thoa giữa 2 vùng khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới giữa bán đảo Sơn Trà và điểm mút nhô ra của đèo Hải Vân, đa dạng sinh học đứng thứ 3 trên toàn quốc. Hệ sinh vật biển ở khu vực này có 1013 loài thuộc 410 giống, bao gồm 245 loài thực vật phù du, 74 loài động vật phù du, 103 loài rong biển, 4 loài cỏ biển, 12 loài thực vật ngập mặn, 144 loài san hô, 161 loài động vật đáy và 270 loài cá biển trong đó có 132 loài cá rạn san hô. Các rạn san hô ở đây phân bố chủ yếu ở ven đảo Sơn Trà và ven bờ bắc mũi Hải Vân, bao gồm các loài san hô tạo rạn Ahermatypic, san hô sừng Gorgonacea và san hô mềm Alcyonacea [8; 11]. Những năm gần đây trước sức ép của con người môi trường của hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai bắt đầu bị ô nhiễm nghiêm trọng và mức độ ô nhiễm đang ngày càng gia tăng, nhất là ô nhiễm do các chất thải, ô nhiễm dầu, bên cạnh đó là sự thay đổi lớn về diện tích mặt nước, làm suy giảm nghiêm trọng nguồn lợi thủy hải sản [11]. 1.2.2.2. Tỉnh Quảng Ngãi a. Đầm Nước Mặn Thuộc địa phận xã Phổ Thạnh (huyện Đức Phổ), có tổng diện tích khoảng 150ha. Đây là khu vực đầm phá kiểu vịnh kín, thông ra biển tại cửa Sa Huỳnh. Nước đầm luôn có độ mặn khá cao cả về mùa khô và mùa mưa, vì vậy có tên là đầm Nước Mặn. Với đầm này chỉ có thể nuôi trồng thủy sản nước mặn và làm muối. Vì thế, từ lâu nhân dân ở đây đã khai thác một phần diện tích của đầm để làm muối [3]. b. Đầm An Khê Thuộc địa phận xã Phổ Khánh (huyện Đức Phổ). Theo báo cáo khoa học điều tra nhiễm mặn vùng ven biển tỉnh Quảng Ngãi, do đài Khí tượng thủy văn Trung Trung Bộ thực hiện năm 1998 cho thấy đầm có độ mặn thấp. Vào mùa mưa nước trong đầm có độ mặn không đáng kể, nhưng về mùa khô là một đầm nước lợ, độ mặn từ 0,3- 10‰ [3]. c. Đầm Lâm Bình Thuộc địa phận xã Phổ Cường (huyện Đức Phổ), có độ mặn thấp, thường dao động từ 0,2- 0,3‰ về mùa khô, những tháng nắng hạn nhất đầm bị cạn nước hoàn toàn [3]. 1.2.2.3. Tỉnh Bình Định Có đầm Trà Ổ, đầm Thị Nại là hai đầm nước lợ của tỉnh Bình Định được Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) đã thực hiện chương trình “Bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học vùng đầm phá ven biển” để xây dựng các mô hình quản lý, sử dụng một cách có hiệu quả vùng đất ngập nước này. Dự án này nhằm mục đích bảo vệ môi trường, duy trì phát triển nguồn lợi đầm phá phục vụ tốt hơn cho đời sống con người. Hai đầm này mang tính đặc trưng của hệ thống đầm phá ven biển miền Trung Việt Nam. Nơi đây có nhiều giống loài thủy sản nước lợ rất có giá trị, không phải nơi nào cũng có được. a. Đầm Trà Ổ Có diện tích 1200 ha, thông với biển qua một đoạn sông ngắn. Nơi đây có cửa Hà Ra là hệ thống ngăn mặn. Cửa có nhiệm vụ ngăn nước mặn vào đầm trong mùa khô để khỏi ảnh hưởng đến đất nông nghiệp, chỉ mở cửa vào mùa mưa, mùa này các loài thủy sản mới giao lưu được giữa hai môi trường trong đầm và ngoài biển. Trong đầm hệ thực vật phù du rất phong phú như: tảo, rong, nhiều loài ấu trùng,… tạo nguồn thức ăn ban đầu rất phong phú cho các loài thủy sản sống trong đầm, cũng từ đó nguồn lợi thủy sản phát triển khá đa dạng, đáng chú ý là các loài tôm, cua, cá chình,… Vào mùa lũ thường có cá hanh, cá hồng, cá chẽm,... đặc biệt là cá chình, cá mun rất quý hiếm có trong sách đỏ thế giới. Có chừng 650 hộ dân của 4 xã ven đầm chuyên sống bằng nghề khai thác đánh bắt trên đầm. Mỗi năm khai thác được khoảng 1000 đến 1200 tấn tôm, 780 đến 1100 tấn cá các loại, thời gian khai thác quanh năm nhưng nhiều nhất là vào đầu mùa mưa. Nhưng hiện nay đáng báo động là tình trạng khai thác hủy diệt như: khai thác khu vực bãi đẻ; khai thác bằng lưới mắt nhỏ (đáy, đăng, mành); khai thác bằng xung điện,… làm nguồn lợi ở đây suy giảm nghiêm trọng. Đáng chú ý là loài chình mun có nguy cơ tuyệt chủng. Ngành thủy sản đã đưa ra một con số đáng báo động là: sản lượng khai thác năm 2006 so năm 2000 đối với cá chình giảm 90%, cá giảm 50%, tôm giảm 84%,... Do nghề khai thác thủy sản tự phát, thiếu quy hoạch, không có sự quản lý chặt chẽ từ chính quyền nên dễ dẫn đến nguy cơ cạn kiệt nguồn lợi thủy sản. Nhiều nhà nghiên cứu đã đề ra giải pháp bảo vệ bằng cách thành lập nhóm hạt nhân bảo vệ nguồn lợi ở cả 4 xã nói trên, mỗi xã một đội, xây dựng mô hình đồng quản lý,... có quy chế quản lý, hàng năm thả bổ sung giống cá, tôm để góp phần tái tạo phát triển nguồn lợi,… Đầm Trà Ổ là một trong 45 khu bảo tồn được quy hoạch là hệ thống các khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020 của Việt Nam [1]. b. Đầm Thị Nại Diện tích trên 5060 ha. Nơi đây không chỉ có nhiều loài chim trú ngụ: cò, diệc, le le,... mà còn có sự phong phú của các loài thủy sản như: tôm, cua, cá, hàu,... Trước năm 1975 có khoảng 1000 ha rừng ngập mặn, thời gian qua do phong trào nuôi tôm phát triển, rừng ngập mặn bị tàn phá, cho nên hiện nay rừng chỉ còn rải rác. Rừng ngập mặn không còn, nên các loài chim, thủy sản trú ngụ ở đây cũng giảm dần. Bên cạnh đó, nhân dân ven đầm nhất là vùng Phước Thuận, Phước Sơn (Tuy Phước), Nhơn Bình (Quy Nhơn) dùng phương tiện đánh bắt hủy diệt: lưới mắt nhỏ, lưới giã cào, xung điện, xiếc máy,... Quanh đầm Thị Nại hiện nay có cảng biển, cầu qua đầm, khu kinh tế Nhơn Hội mới mở, dân cư quanh đầm ngày càng đông đúc, nước thải từ thành phố khu, cụm công nghiệp chưa xử lý triệt để đổ ra đầm gây ảnh hưởng rất lớn về môi trường, làm cho đầm ngày càng bị ô nhiễm nước thải, chất thải sinh hoạt. Do vậy, nguồn lợi th
Luận văn liên quan