Đề tài Kinh tế thị trường nền tảng của đổi mới và phát triển ở Việt Nam

Qua gần 30 năm đổi mới,thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đúng đắn của Đảng và tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong việc hiện thực hoá đường lối đó, chúng ta đã đạt dược những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng. Nền dân chủ XHCN với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết định trên những đường nét cơ bản. Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, sự thống nhất trong đa dạng đã hình thành. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ngày càng được củng cố, thực sự trở thành một động lực quan trọng của đổi mới đất nước. Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại ngày càng đủ mạnh để bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống yên lành của nhân dân.Nền ngoại giao độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam sắn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, không ngừng mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế đã phát huy vai trò to lớn của mình trong đổi mới đất nước. Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, đủ sức gánh vác được sứ mệnh lịch sử mà dân tộc ta giao phó. Những thành tựu đó đã làm cho sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên nhiều, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là không thể phủ nhận đối với sự phát triển của đất nước. Nhưng phải kể đến vai trò quyết định của đường lối đổi mới mà nồng cốt là đổi mới kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Vậy vai trò của kinh tế thị trường cụ thể như thế nào hãy cùng chúng tôi khám phá bằng đề tài: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG NỀN TẢNG CỦA ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM

doc21 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1941 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế thị trường nền tảng của đổi mới và phát triển ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài Luận ĐỀ TÀI KINH TẾ THỊ TRƯỜNG NỀN TẢNG CỦA ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM KINH TẾ THỊ TRƯỜNG NỀN TẢNG CỦA ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM Q ua gần 30 năm đổi mới,thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đúng đắn của Đảng và tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong việc hiện thực hoá đường lối đó, chúng ta đã đạt dược những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng. Nền dân chủ XHCN với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết định trên những đường nét cơ bản. Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, sự thống nhất trong đa dạng đã hình thành. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ngày càng được củng cố, thực sự trở thành một động lực quan trọng của đổi mới đất nước. Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại ngày càng đủ mạnh để bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống yên lành của nhân dân.Nền ngoại giao độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam sắn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, không ngừng mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế đã phát huy vai trò to lớn của mình trong đổi mới đất nước. Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, đủ sức gánh vác được sứ mệnh lịch sử mà dân tộc ta giao phó. Những thành tựu đó đã làm cho sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên nhiều, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là không thể phủ nhận đối với sự phát triển của đất nước. Nhưng phải kể đến vai trò quyết định của đường lối đổi mới mà nồng cốt là đổi mới kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Vậy vai trò của kinh tế thị trường cụ thể như thế nào hãy cùng chúng tôi khám phá bằng đề tài: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG NỀN TẢNG CỦA ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM LÀ GÌ? KHÁI NIỆM Những tiền đề trước đổi mới Kinh tế tri thức Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong sự nảy sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong ngành kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao như ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những nghành công nghệ truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng công nghệ cao. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( OECD ) đưa ra khái niệm năm 1995: “*Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải nâng cao chất lượng cuộc sống”. * Kinh tế tri thức còn được hiểu là một loại môi trường kinh tế-kỹ thuật, văn hóa-xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trường đó, tri thức sẽ tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội. Theo cách hiểu này, cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri thức không phải chỉ đơn thuần là việc phát triển khoa học-công nghệ cao mà là việc phát triển một nền văn hóa đổi mới, sáng tạo để đem lại những thuận lợi cho việc sản xuất, khai thác và sử dụng mọi loại tri thức, mọi loại hiểu biết của nhân loại. Hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô toàn cầu đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới và mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong toàn bộ lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ các nơi.[1] Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Khái niệm này được Béla Balassa đề xuất từ thập niên 1960 và được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu.[3] Trong các giáo trình nhập môn về kinh tế học quốc tê, hội nhập kinh tế thường được cho là có sáu cấp độ: khu vực hiệp định thương mại ưu đãi, khu vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế tiền tệ, và hội nhập toàn diện. Tuy nhiên trong thực tế, các cấp độ hội nhập có thể nhiều hơn và đa dạng hơn. Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc khu vực - tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là có quy mô toàn thế giới giống như những gì mà Tổ chức Thương mại Thế giới đang hướng tới. Kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Đặc điểm: Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải. Trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo, cũng như không có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (trừ nền kinh tế Bắc Triều Tiên). Thay vào đó là nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị trường nhiều hay ít. Ưu điểm: + Kinh tế thị trường tạo cơ hội cho mọi người sáng tạo, luôn tìm cách để cải tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh ngiệm để phát triển không ngừng. + Kinh tế thị trường tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng người quản lí kinh doanh năng động, có hiệu quả và đào thải những nhà quản lí kém hiệu quả. + Kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Nhược điểm: + Kinh tế thị trường chú trọng những nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến nhu cầu cơ bản của xã hội . +Kinh tế thị trường đặt lợi nhuận lên hàng đầu, cái gì có lãi thì làm, không có lãi thì thôi nên nó không giải quyết được cái gọi là “hàng hóa công cộng” (đường sá, các công trình văn hóa, y tế, giáo dục vv…) +Trong kinh tế thị trường có sự phân bieetj giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo nhiều, bất công xã hội Trong lịch sử có nhiều chiều hướng nhận thức khác nhau về kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa Những người theo chủ nghĩa Stalin (không nhầm lẫn với chủ nghĩa Marx nguyên bản) nhiều lần nhấn mạnh rằng cơ chế thị trường là một cơ chế hoạt động kém, cần phải được thay bằng cơ chế kế hoạch hóa có ý thức Oscar Lange đã phác họa một nền kinh tế mà các công ty sở hữu công cộng có thể tối đa hóa lợi nhuận của mình hoặc hoạt động theo công thức tối ưu hóa gần như thế. Cơ quan kế hoạch trung ương cố gắng thiết lập các giá cả cân bằng và làm trong sạch thị trường bằng cách mô phỏng cơ chế thị trường: khi thấy nhu cầu tăng, nó tăng giá lên và khi thấy nhu cầu giảm, nó giảm giá xuống. Ông khẳng định rằng một hệ thống như vậy có khả năng cân bằng giữa cung và cầu Tuy nhiên, Friedrich von Hayek đã bác bỏ tư tưởng trên của Lange bằng lập luận: vấn đề lớn thực sự của chủ nghĩa xã hội không phải là việc liệu nó có thiết lập được giá cả cân bằng hay không mà là vấn đề có những động cơ khuyến khích gì để thu thập và áp dụng nhanh chóng những thông tin nhất thiết là tản mạn, lẫn lộn ở nhiều chỗ khác nhau. Những thông tin tản mạn đó được Hayek gọi là tri thức riêng phần, những tri thức được sở hữu và chỉ được sử dụng tốt nhất bởi mỗi cá nhân Trong bài luận "Sử dụng tri thức trong xã hội" (The Use of Knowledge in Society) đăng trên chuyên san American Economic Review năm 1945, Hayek cho thấy rằng kế hoạch hóa kinh tế tỏ ra kém hiệu quả hơn so với tự do hóa kinh tế bởi vì kế hoạch hóa không thể giải được bài toán của hệ thống giá cả là một hệ thống tự phát giúp con người truyền tải tri thức cần thiết từ người này sang người khác để phối hợp với kế hoạch cá nhân riêng rẽ. Chính vì thế, Hayek chủ trương rằng cần phải để nền kinh tế hoạt động tự do trên nguyên tắc của cơ chế thị trường. Kinh tế thị trường và học thuyết xã hội chủ nghĩa Không nên lầm tưởng kinh tế thị trường chỉ gắn liền với chủ nghĩa tư bản, còn chủ nghĩa xã hội thì không. Quan niệm này xuất phát từ mô hình kinh tế bao cấp của Liên Xô và Đông Âu trước kia. Thực ra, theo lý luận của Lenin thì chủ nghĩa xã hội là bước chuyển giữa chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Trong đó mô hình kinh tế là hỗn hợp, đan xen giữa kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể với kinh tế tư bản tư nhân. Theo đó, Lenin đã đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP), theo đó nhà nước cho phép một số thị trường được tồn tại, các ngành công nghiệp nhà nước đó sẽ hoàn toàn tự do đưa ra các quyết định kinh tế của mình. Sau khi Lenin mất, Stalin đã xóa bỏ NEP và xây dựng mô hình kinh tế bao cấp, khiến nhiều người lầm tưởng chủ nghĩa xã hội chỉ gắn liền với kinh tế bao cấp. Những lý luận đầu tiên về chủ nghĩa xã hội thị trường được nhà kinh tế Enrico Barone người Ý nêu ra vào năm 1908 trong tác phẩm "Il Ministro della Produzione nello Stato Collettivista", tạp chi Giornale degli Economisti, số 2, tháng Chín-Mười, trang 267-293. Barone đã đưa ra một mô hình toán về một nền kinh tế tập thể, theo đó các quan hệ tiền tệ hàng hóa trong nền kinh tế đều có thể tính toán được và từ đó có thể điều chỉnh để sao cho phúc lợi tập thể đạt mức tối ưu. Năm 1929, Fred Manville Taylor người Mỹ trong công trình "The Guidance of Production in a Socialist State," tạp chí American Economic Review, số 19(1), trang 1-8, đã nêu ra những điều kiện để nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể, về mặt lý thuyết, đạt được hiệu quả trong phân phối nguồn lực. Trên cơ sở mô hình của Barone, vào năm 1936 nhà kinh tế người Ba Lan Oskar Ryszard Lange đã công bố cuốn sách của mình mang tên Lý thuyết kinh tế về chủ nghĩa xã hội trong đó ông kết hợp kinh tế học Marxist với kinh tế học tân cổ điển. Lange ủng hộ việc sử dụng các công cụ thị trường (giá cả) và đồng thời ủng hộ việc kế hoạch hóa. Lange cho rằng các nhà làm kế hoạch có thể tính toán và đặt ra các mức giá và chờ đợi phản ứng của thị trường để điều chỉnh cho phù hợp. Như vậy nền kinh tế sẽ có hiệu quả cao hơn thay vì để cho thị trường quyết định hoàn toàn. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy Chủ nghĩa xã hội kết hợp với yếu tố thị trường còn được gọi là Con đường thứ ba (để phân biệt với hai con đường khác là kinh tế thị trường tự do (hay kinh tế tư bản chủ nghĩa) và kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các nước Đông Âu và Liên Xô cũ đã rời bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa để chuyển sang nền kinh tế thị trường. Các nước tư bản phát triển như Mĩ, Anh, Đức, Pháp và Nhật trong thế kỉ 20 cũng điều chỉnh mô hình kinh tế theo hướng tăng cường sự can thiệp của bộ máy nhà nước (kinh tế hỗn hợp). Chủ nghĩa xã hội thị trường là đường lối phát triển kinh tế chủ đạo của một số nước phát triển nhất thế giới tại Bắc Âu như Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch... Các quan điểm về Đổi Mới kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu trên các kinh nghiệm cải cách của các nước Đông Âu và Trung Quốc. VẬY ĐỔI MỚI THEO QUAN ĐIỂM Ở VIỆT NAM LÀ Đổi Mới là một chương trình cải cách kinh tế và một số mặt xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách Đổi Mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986 [1]. Đổi Mới về kinh tế được thực hiện trước tiên. Trong những năm đầu thế kỷ 21, Việt Nam mới bắt đầu thực hiện Đổi Mới trên các mặt khác: xã hội, chính trị, tư duy, cơ chế, văn hóa…Tuy nhiên chính trị không có những thay đổi nhiều so với Kinh tế. Đổi Mới ở Việt Nam tương tự chính sách kinh tế mới của Liên Xô giai đoạn Lenin lãnh đạo (1921-1924), Cải Cách Khai Phóng ở Trung Quốc và Đổi Mới ở Lào. LỊCH SỬ ĐỔI MỚI CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Ở TRUNG QUỐC Ngày 18/12/1978, nhà lãnh đạo thiên tài Đặng Tiểu Bình cùng Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã có một quyết định làm thay đổi vận mệnh của cả dân tộc: Cải cách và mở cửa nền kinh tế. Ở thời điểm đó, giữa các quốc gia thuộc hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa thế giới, Trung Quốc là nước đi đầu trong việc tháo gỡ cơ chế cũ, bứt phá thận trọng nhưng sáng tạo và mạnh bạo nhằm xây dựng một nền kinh tế mới. Đặng Tiểu Bình là người đầu tiên đề xuất Trung Quốc nên tiến hành cải cách, thừa nhận chính sách mở cửa và tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế. Trong khi còn khoảng 80% dân số Trung Quốc sống ở vùng nông thôn, ông chỉ ra rằng cải cách nên tiến hành ở nông thôn, trước khi tiến hành ở các thành phố. Công cuộc cải cách các khu đô thị thường phức tạp hơn ở vùng nông thôn, ông khuyến khích nên khám phá các tiềm năng này một cách táo bạo nhưng cũng bằng sự quan tâm và cẩn trọng. Theo đề xuất của ông, 4 đặc khu kinh tế đã được hình thành và 14 thành phố duyên hải mở cửa với thế giới. Thâm Quyến được chọn làm nơi thử nghiệm các chính sách tự do hóa kinh tế của Trung Quốc. Gần 30 năm sau, nơi từng là làng chài 30.000 dân giáp với Hong Kong này đã biến thành một trung tâm kinh tế 12 triệu người. Trên cơ sở bình đẳng đôi bên cùng có lợi, ông tuyên bố Trung Quốc nên mở rộng hợp tác kinh tế với các nước bên ngoài, thu hút vốn, giới thiệu các kỹ thuật và kỹ năng quản lý tiên tiến của họ để thúc đẩy việc phát triển kinh tế riêng của mình. Các thành phần tư nhân nên được phát triển như là một phần phụ trợ cho các thành phần xã hội vốn dĩ sẽ chiếm ưu thế trong nền kinh tế Trung Quốc. Ông cũng cho rằng một số khu vực và một số người được phép làm giàu, sau đó những người khác sẽ theo gương họ. Sự phát triển của Trung Quốc trong 30 năm qua đã chứng minh chính sách cải cách và mở cửa của Đặng Tiểu Bình là hoàn toàn đúng đắn. Những thành tựu đã đạt được Bước ngoặt đầu tiên phải kể đến đó là việc công nhận trang trại tư nhân quy mô nhỏ, từ bỏ chính sách công xã trong nông nghiệp và công nghiệp thời Mao Trạch Đông. Nhiều đặc khu kinh tế được mở ra như Thâm Quyến, Hạ Môn, Chu Hải để thu hút đầu tư nước ngoài, với lực lượng lao động là nông dân thất nghiệp. Kinh tế Trung Quốc kể từ đó đã tăng trưởng mạnh và vươn lên hàng thứ tư thế giới, sau Mỹ, Nhật Bản và Đức. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, thu nhập bình quân đầu người năm 1985 là 293 USD và sau hơn 20 năm tăng lên gần 10 lần 2.025 USD. Cải cách kinh tế giúp cho Trung Quốc tăng trưởng ở mức đáng kinh ngạc, với mức tăng trung bình hàng năm là 9,8% trong giai đoạn 1978-2007. Năm 1978, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc ở mức 364,5 tỷ nhân dân tệ (khoảng 52 tỷ USD). Đến năm 2007, con số này đã gấp 68 lần, lên 25.100 tỷ tệ (khoảng 3.540 tỷ USD). Theo dự báo đến năm 2025, Trung Quốc có khả năng vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế đứng thứ hai thế giới. Thậm chí, đến năm 2038, Trung Quốc có thể sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Ngoại thương cũng đạt được nhiều thành tựu. Năm 2007, kim ngạch xuất nhập khẩu Trung Quốc đạt 2.170 tỷ USD, tăng 107 lần so với mức 20,6 tỷ USD của năm 1978. Năm 2004, Trung Quốc đã vươn lên vị trí thứ 3 trong buôn bán trên thế giới. Lượng dự trữ ngoại tệ cũng theo đó ngày càng dồi dào. Với số tiền dự trữ ngoại tệ lớn, Trung Quốc có thể đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành kênh quan trọng nhất để Trung Quốc thu hút vốn. Năm 2007, FDI đạt 74,8 tỷ USD, tăng 81 lần so với năm 1983. Tính đến nay, Trung Quốc là nơi hấp dẫn FDI nhất trong số các quốc gia đang phát triển. Từ những thay đổi ngoạn mục trong nền kinh tế vĩ mô, cuộc sống của người dân Trung Quốc cũng theo đó mà thay da đổi thịt. Những vật dụng mà cách đây hơn 30 năm người dân không bao giờ nghĩ tới như là tivi tủ lạnh thì giờ đây nó hiện hữu ở hầu hết mọi gia đình Trung Quốc. Tầng lớp Trung lưu ở Trung Quốc cũng tăng lên đáng kể và rất nhiều người Trung Quốc có nhà riêng với đầy đủ tiện nghi hiện đại cùng với những chiếc ôtô sang trọng. Người dân Trung Quốc giờ đây không phải lo sợ vì không đủ ăn như trước đây nữa thay vào đó là nỗi lo vì… ăn quá nhiều. Những hạn chế Mặc dù cuộc cải cách này đem lại rất nhiều lợi ích cho mọi người nhưng không phải ai cũng nhận được sự những lợi ích bình đẳng như nhau. Sự thay đổi kỳ diệu của nền kinh tế Trung Quốc một phần được đóng góp bởi những người dân nhập cư. Họ là những người nông dân đã rời bỏ đất đai làng mạc để lên thành phố kiếm sống. Theo ước tính của chính phủ Trung Quốc thì số người dân nhập cư hiện nay vào khoảng 210 triệu người. Theo cảnh báo thì chỉ cần 10% trong số những người nhập cư này thất nghiệp thì nguy cơ bất ổn xã hội lẫn chính trị không biết đâu mà lường. Một hạn chế của cải cách kinh tế đó là tình trạng phân hóa giàu nghèo rất rõ rệt. Khi nhà nước áp đặt đường hướng phát triển, cho phép một thành phần có ưu quyền đặc lợi được làm giàu trước thành phần khác, thì phân cách giàu nghèo càng ngày càng lớn. Trong vòng 12 năm, từ 1995 đến 2007, tiền thuế nhà nước thu vào nhân lên 6 lần. Trong khi thu nhập của người dân thành thị tăng có 1,6 lần và dân nông thôn tăng có 1,2 lần. Theo ước tính mới nhất của Ngân hàng Thế giới, hơn 100 triệu trong số 1,3 tỷ dân Trung Quốc sống ở mức dưới 1 USD/ngày. Con số này đã giảm so với mức 800 triệu người ba thập niên trước, nhưng số người sống ở mức 1-2 USD một ngày lại nhiều hơn. Trải qua 30 năm đổi mới, sức mạnh dân tộc của Trung Quốc tăng lên một mức rất lớn và nhân dân nước này đã nhận được những lợi ích rõ ràng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn không ít hạn chế và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã thúc giục người dân nước mình không được bằng lòng với những thành tựu đó và không ngừng tiến lên phía trước. Ở LIÊN XÔ (NGA) Trong cuộc nội chiến (1917-1921), Lenin thông qua Cộng sản thời chiến, bắt buộc giải tán các bất động sản ruộng đất và sự cưỡng ép tịch thu thặng dư nông nghiệp. Cuộc nổi loạn Kronstadt là dấu hiệu cho Cuộc chiến tranh chủ nghĩa cộng sản không được dân chúng ủng hộ ở vùng nông thôn: tháng Ba 1921, vào thời điểm cuối của cuộc nội chiến, các thuỷ thủ bị vỡ mộng, các nông dân ban đầu từng là những người ủng hộ tích cực của Bolshevik thời chính phủ lâm thời, nổi loạn chống chính quyền mới. Mặc dù Hồng quân, dưới sự chỉ huy của Leon Trotsky, vượt qua biển Baltic băng giá và nhanh chóng tiêu diệt cuộc nổi loạn nhưng dấu hiệu về sự bất mãn ngày càng lớn đã buộc chính quyền dưới sự lãnh đạo của Lenin phải tạo điều kiện thuận lợi cho một liên minh rộng lớn của tầng lớp lao động và nông dân (tám mươi phần trăm dân số), mặc dù các bè phái cánh tả trong đảng thích một chính quyền được đại diện và có lợi ích dành riêng cho giai cấp vô sản hơn. Chính sách kinh tế mới nổ ra Tháng Ba, Đảng cộng sản Nga tiến hành Đại hội X. Lenin tuyên bố chấm dứt chủ nghĩa cộng sản thời chiến và thành lập Chính sách kinh tế mới (NEP), theo đó nhà nước cho phép một số thị trường giới hạn được tồn tại. Công việc kinh doanh tư nhân nhỏ được cho phép và các hạn chế về hoạt động chính trị được nới lỏng một chút. Tuy nhiên, sự thay đổi to lớn nhất liên quan tới vấn đề thặng dư nông nghiệp. Thay vì trưng thu thặng dư nông nghiệp để nuôi dân thành phố (phần cốt yếu của Chiến tranh chủ
Luận văn liên quan