Nghề nuôi cá biển ở Việt Nam có từ lâu đời nhưng chưa phát triển mạnh bởi thị trường và con giống không chủ động (con giống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn giống tự nhiên). Từ 1990 đến nay nghề nuôi cá biển có xu thế tăng nhanh, dọc biên giới từ Móng Cái đến Hà Tiên vùng biển nào cũng có cơ sở thu gom và nuôi giữ cá biển. Khu vực Hải Phòng, Quảng Ninh là nơi có số lượng bè cá nhiều nhất, tính đến giữa năm 1995 số lượng bè nuôi ở khu vực này lên tới vài chục chiếc với tổng số khoảng 300 - 400 ô lồng. Khu vực biển miền Trung, từ Đà Nẵng đến Bình Thuận có khoảng 200 lồng và khu vực Đông Tây Nam Bộ có trên 100 ô lồng. Ngoài hình thức nuôi lồng bè trên biển còn phát triển cả nuôi trong ao đầm nước lợ một số đối tượng có giá trị kinh tế như cá song, vược, cá bống bớp, cá tráp, cá măng, cá dìa .
Theo đánh giá của FAO nghề nuôi cá lồng biển của Việt Nam còn non trẻ so với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, chúng ta có đầy đủ tiềm năng để phát triển nghề này. Việt Nam có bờ biển dài 3260 km với nhiều eo vịnh, vùng triều rộng lớn tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển NTTS nước mặn, lợ đặc biệt là nghề nuôi cá biển. Vì vậy nếu được đầu tư đúng mức, ngư dân và các cơ sở sản xuất tiếp nhận được kỹ thuật nuôi tiên tiến và dã chủ động sản xuất nhân tạo giống cá biển thì nghề nuôi cá lồng biển của Việt Nam sẽ có những bước nhảy vọt, tạo việc làm và tăng thu nhập cho đông đảo ngư dân vùng ven biển, đem lại nguồn hàng xuất khẩu lớn cho đất nước.
Việc chọn đối tượng nuôi có ý nghĩa rất quan trọng trong nghề nuôi cá biển, đối tượng nuôi phải có giá trị kinh tế cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là phải chủ động nguồn giống: cả về số lượng, chất lượng và tính mùa vụ.
Đối với miền Bắc nước ta, ở khu vực Quảng Ninh, Hải Phòng và một số khu vực ven biển trong vùng Vịnh Bắc Bộ, ngư dân và một số cơ sở sản xuất chủ yếu nuôi các đối tượng: cá song, cá giò, cá hồng, cá tráp vây vàng, cá vược, cá hồng mỹ. Đây là những đối tượng có giá trị kinh tế cao, tốc độ sinh trưởng nhanh, thị trường tiêu thụ rộng , dễ nuôi hợp với qui mô hộ gia đình cũng như nuôi công nghiệp. Trong đó cá song, cá hồng, cá vược được xem như là đối tượng nuôi rộng rãi hơn cả về số lượng và phân bố vùng nuôi bởi vì những đối tượng này có giá trị kinh tế cao, tiềm năng về thị trường rãi rộng , đặc biệt những loài cá này gần đây ở nước ta đã bước đầu sản xuất được con giống nhân tạo đáp ứng được nhu cầu của người nuôi.
Cá chim vây vàng (Trachinotus blochii) là loài cá có giá trị kinh tế cao và là loài cá nuôi quan trọng ở vùng biển miền Nam Trung Quốc và một số quốc gia trên thế giới, đang được tiêu thụ mạnh ở Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc, Mỹ, Singapore. Đây là một đối tượng mới chưa được nuôi ở Việt Nam.
Thực hiện chủ trương của Bộ Thuỷ sản về đa dạng hoá đối tượng nuôi có giá trị kinh tế, nhằm góp phần thúc đẩy nghề nuôi cá biển ở Việt Nam, Trường Trung học Thuỷ sản IV (nay là Trường Cao đẳng Thuỷ sản) mạnh dạn nhập công nghệ sản xuất giống nhân tạo cá chim vây vàng để có thể chủ động được con giống cung cấp, tận dụng triệt để diện tích mặt nước ở vùng biển Quảng Ninh nói riêng và Việt Nam nói chung.
Để tạo điều kiện cho sinh viên có điều kiện làm quen với công tác nghiên cứu và thông nhập thực tế, hoàn thành khoá học, được sự cho phép của Ban Chủ nhiệm Khoa Nuôi trồng Thuỷ sản - Trường Đại học Nha Trang tôi tiến hành thực hiện đề tài tốt nghiệp: “Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá chim vây vàng Trachinotus blochii Lacepède 1801 tại trại thực nghiệm trường Cao đẳng Thuỷ Sản-Yên Hưng- Quảng Ninh”
Mục tiêu đề tài
- Nắm bắt được phương pháp nghiên cứu khoa học
- Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá Chim vây vàng
Nội dung đề tài
- Kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ
- Kỹ thuật tuyển chọn cá bố mẹ cho đẻ
- Xác định các yếu tố môi trường trong bể đẻ, bể ấp
- Kỹ thuật cho đẻ
- Kỹ thuật ấp nở trứng
Vì thời gian và trình độ có hạn, tài liệu tham khảo không nhiều nên trong quá trình thực hiện đề tài này còn nhiều thiếu sót. Kính mong thầy cô và các bạn đọc đóng góp thêm ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn
36 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4148 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá chim vây vàng Trachinotus blochii Lacepède 1801 tại trại thực nghiệm trường Cao đẳng Thuỷ Sản-Yên Hưng- Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Nghề nuôi cá biển ở Việt Nam có từ lâu đời nhưng chưa phát triển mạnh bởi thị trường và con giống không chủ động (con giống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn giống tự nhiên). Từ 1990 đến nay nghề nuôi cá biển có xu thế tăng nhanh, dọc biên giới từ Móng Cái đến Hà Tiên vùng biển nào cũng có cơ sở thu gom và nuôi giữ cá biển. Khu vực Hải Phòng, Quảng Ninh là nơi có số lượng bè cá nhiều nhất, tính đến giữa năm 1995 số lượng bè nuôi ở khu vực này lên tới vài chục chiếc với tổng số khoảng 300 - 400 ô lồng. Khu vực biển miền Trung, từ Đà Nẵng đến Bình Thuận có khoảng 200 lồng và khu vực Đông Tây Nam Bộ có trên 100 ô lồng. Ngoài hình thức nuôi lồng bè trên biển còn phát triển cả nuôi trong ao đầm nước lợ một số đối tượng có giá trị kinh tế như cá song, vược, cá bống bớp, cá tráp, cá măng, cá dìa….
Theo đánh giá của FAO nghề nuôi cá lồng biển của Việt Nam còn non trẻ so với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, chúng ta có đầy đủ tiềm năng để phát triển nghề này. Việt Nam có bờ biển dài 3260 km với nhiều eo vịnh, vùng triều rộng lớn tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển NTTS nước mặn, lợ đặc biệt là nghề nuôi cá biển. Vì vậy nếu được đầu tư đúng mức, ngư dân và các cơ sở sản xuất tiếp nhận được kỹ thuật nuôi tiên tiến và dã chủ động sản xuất nhân tạo giống cá biển thì nghề nuôi cá lồng biển của Việt Nam sẽ có những bước nhảy vọt, tạo việc làm và tăng thu nhập cho đông đảo ngư dân vùng ven biển, đem lại nguồn hàng xuất khẩu lớn cho đất nước.
Việc chọn đối tượng nuôi có ý nghĩa rất quan trọng trong nghề nuôi cá biển, đối tượng nuôi phải có giá trị kinh tế cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là phải chủ động nguồn giống: cả về số lượng, chất lượng và tính mùa vụ.
Đối với miền Bắc nước ta, ở khu vực Quảng Ninh, Hải Phòng và một số khu vực ven biển trong vùng Vịnh Bắc Bộ, ngư dân và một số cơ sở sản xuất chủ yếu nuôi các đối tượng: cá song, cá giò, cá hồng, cá tráp vây vàng, cá vược, cá hồng mỹ. Đây là những đối tượng có giá trị kinh tế cao, tốc độ sinh trưởng nhanh, thị trường tiêu thụ rộng , dễ nuôi hợp với qui mô hộ gia đình cũng như nuôi công nghiệp. Trong đó cá song, cá hồng, cá vược được xem như là đối tượng nuôi rộng rãi hơn cả về số lượng và phân bố vùng nuôi bởi vì những đối tượng này có giá trị kinh tế cao, tiềm năng về thị trường rãi rộng , đặc biệt những loài cá này gần đây ở nước ta đã bước đầu sản xuất được con giống nhân tạo đáp ứng được nhu cầu của người nuôi.
Cá chim vây vàng (Trachinotus blochii) là loài cá có giá trị kinh tế cao và là loài cá nuôi quan trọng ở vùng biển miền Nam Trung Quốc và một số quốc gia trên thế giới, đang được tiêu thụ mạnh ở Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc, Mỹ, Singapore. Đây là một đối tượng mới chưa được nuôi ở Việt Nam.
Thực hiện chủ trương của Bộ Thuỷ sản về đa dạng hoá đối tượng nuôi có giá trị kinh tế, nhằm góp phần thúc đẩy nghề nuôi cá biển ở Việt Nam, Trường Trung học Thuỷ sản IV (nay là Trường Cao đẳng Thuỷ sản) mạnh dạn nhập công nghệ sản xuất giống nhân tạo cá chim vây vàng để có thể chủ động được con giống cung cấp, tận dụng triệt để diện tích mặt nước ở vùng biển Quảng Ninh nói riêng và Việt Nam nói chung.
Để tạo điều kiện cho sinh viên có điều kiện làm quen với công tác nghiên cứu và thông nhập thực tế, hoàn thành khoá học, được sự cho phép của Ban Chủ nhiệm Khoa Nuôi trồng Thuỷ sản - Trường Đại học Nha Trang tôi tiến hành thực hiện đề tài tốt nghiệp: “Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá chim vây vàng Trachinotus blochii Lacepède 1801 tại trại thực nghiệm trường Cao đẳng Thuỷ Sản-Yên Hưng- Quảng Ninh”
Mục tiêu đề tài
- Nắm bắt được phương pháp nghiên cứu khoa học
- Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá Chim vây vàng
Nội dung đề tài
- Kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ
- Kỹ thuật tuyển chọn cá bố mẹ cho đẻ
- Xác định các yếu tố môi trường trong bể đẻ, bể ấp
- Kỹ thuật cho đẻ
- Kỹ thuật ấp nở trứng
Vì thời gian và trình độ có hạn, tài liệu tham khảo không nhiều nên trong quá trình thực hiện đề tài này còn nhiều thiếu sót. Kính mong thầy cô và các bạn đọc đóng góp thêm ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn
Xin chân thành cảm ơn!
Phần 1: TỔNG LUẬN
1.1. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển trong nước và thế giới
1.1.1. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển trên thế giới
Cá biển là loại thực phẩm có giá trị được thị trường ưa chuộng, một số loài cá biển có hàm lượng acid béo cao, đặc biệt là hàm hàm lượng DHA và EPA rất cần thiết cho con người.
Trong vài thập kỷ gần đây, nghề nuôi cá biển trên thế giới đã có những bước phát tiến nhảy vọt. Một số quốc gia có nền công nghiệp khai thác cá hiện đại đã chuyển sang nuôi biển và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng như Nauy, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan... Việc chuyển hướng từ khai thác sang nuôi trồng đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong việc chủ động tạo ra nguồn thực phẩm cung cấp cho xã hội, cải thiện cuộc sống của con người, giảm dần sự lệ thuộc vào tự nhiên.
Nuôi trồng hải sản còn là phương án hữu hiệu đảm bảo cân bằng sinh thái góp phần bảo vệ môi trường nếu như được tổ chức và kiểm soát trong phạm vi nuôi bền vững. Khi nhu cầu tiêu dùng về các loại hải sản được đáp ứng, áp lực khai thác từ tự nhiên sẽ giảm đặc biệt là những đối tượng hải sản quý hiếm. Đây sẽ là điều kiện để đảm bảo cho đa dạng sinh học và sự cân bằng sinh thái tự nhiên. Tuy nhiên, việc phát triển nuôi trồng hải sản tuỳ tiện, thiếu sự quản lý và tổ chức một cách khoa học có thể dẫn đến những tác động xấu tới môi trường sinh thái và đa dạng sinh học. Vấn đề ô nhiễm môi trường những tác động nguồn gen và đa dạng sinh học...có thể sẽ trở thành những hiểm hoạ nếu như con người không nhận thức được và xem xét một cách nghiêm túc.
Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cá biển có một lịch sử nghiên cứu khá dài. Theo Wongsomnuk và Manevonk (1973) đã có báo cáo đầu tiên về những thành công trong nghiên và sản xuất giống đại trà cá vược (Lates calcarifer) từ những năm giữa thập kỷ 1970 ở Thái Lan. Từ đó sản xuất giống nhân tạo cá biển ngày càng được phát triển rộng rãi ở Úc và các nước châu á khác như Trung Quốc, Đài loan, Nhật Bản, Indonesia… ở cá đối (Mugil sp.), báo cáo đầu tiên trong việc vuốt trứng và cho thụ tinh được ghi nhận vào năm 1936 bởi Sanzo và 1938 bởi Belloc. Việc kích thích cá đẻ nhân tạo chỉ được báo cáo đầu tiên vào năm 1969 bởi Yashous. Năm 1973, Liao đã tổng kết những kết quả sản xuất giống cá này ở Đài Loan từ những năm 1963 - 1973. Từ đó, sản xuất giống cá đối cũng đã tiếp tục được hoàn thiện và ứng dụng ở một số nước.
Năm 1990, Đài loan sản xuất 152 triệu ấu trùng cá biển, trong đó có 130 triệu cá măng, 5 triệu cá Acanthopagus chlegeli, 2 triệu cá tráp vàng Acanthpagus latus, 3 triệu cá vược Nhật Bản Lateolabrax japonicus, 3 triệu cá tráp bạc Sparus sarba, 2 triệu cá song Epinephelus malabaricus, 2 triệu cá tráp đỏ Pagrus major, 2 triệu cá hồng bạc Lutjanus argetimaculatus, 1 triệu cá vược Lates calcarifer và còn lại là ấu trùng các loại cá khác (Liao, 1991). Cũng theo thống kê năm 1987, Nhật Bản sản xuất giống các loài cá biển nuôi chủ yếu gồm 58.266.000 con Pagrus major, 1.192.000 con ca cam Seriola quenqueradia (Takeshi và Minoru, 1990). Thái Lan, hàng năm sản xuất được khoảng 1.200 tấn cá vược, chủ yếu từ nguồn giống nhân tạo (Kong Keo, 1991). Philippines, cá Măng được xem là đối tượng nuôi quan trọng nhất, sản lượng năm 1987 là 211.125 triệu tấn cá thịt (Rogelio và Carlos, 1990). Trong khi đó, các nước châu Âu, cá chẽm loài Dicentrachus labrax là loài được ưa chuộng trong nghề nuôi và sản xuất giống. Số liệu thống kê cũng cho biết, số lượng cá chẽm con sản xuất được năm 1987. Pháp, Ý, Hy Lạp lần lượt là 2,6 triệu, 5 triệu, 3 triệu con. Ví dụ: năm 1987, Anh sản xuất 230.000 con, Pháp: 75.000 con, Tây Ban Nha: 265.000 con, và Na - Uy là 110.000 con.
Bảng 1. Sản lượng cá biển của một số nước trên thế giới
Quèc gia
Năm
Số lượng cá biển (tấn)
Nguồn
Nauy
1998
550.000
(Hjelt, 2000)
Nhật Bản
1997
250.000
(Takashma & Arimoto, 2000).
Úc
1998
186.000
O,Sullivan & Roberts, 1999
Hàn Quốc
1999
40.000
Kim,2000
Philippine
1999
10.000
Marte et al, 2000
Malaysia
1997
5.621
Shariff & Gopinath, 2000
Việt Nam
1998
540
Tuan et al, 2000
2002
2.626
Luu, 2002
1.1.2. Tình hình sản xuất giống và nuôi cá biển ở Việt Nam
Đối với những loài cá nước ngọt, khả năng sản xuất giống trong những năm gần đây để cung cấp cho ngư dân và các cơ sở nuôi trồng thuỷ sản được coi như tương đối thành công và đã đáp ứng được nhu cầu về con giống cho nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt của nước ta (cả nước có 400 trại sản xuất cá giống). Mặt khác, đối với những loài cá nước mặn thì việc tìm hiểu đặc điểm sinh học (sinh sản, tập tính sống, phân bố, nhất là các điều kiện sinh sản ...) của đối tượng để đưa vào sản xuất là vô cùng khó khăn và phức tạp, có khi phải mất nhiều năm liền, tốn kém về nhân lực và tiền của.
Ở nước ta, trước đây hầu hết nguồn cá giống cung cấp cho nghề nuôi lồng bè trên biển, chủ yếu là dựa vào khai thác ngoài tự nhiên bằng cách bẫy hoặc dùng lưới; vì vậy nguồn cung cấp giống chưa được chủ động, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên và khả năng đánh bắt của các ngư dân, chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng, chất lượng và tính thời gian của con giống cho nghề nuôi cá lồng bè trên biển cả ở qui mô gia đình và qui mô công nghiệp. Mặt khác, việc khai thác giống tự nhiên vượt quá khả năng tái tạo quần đàn đã đến mức báo động. Theo điều tra của (Đoàn Văn Đẩu 1998) cho thấy sản lượng cá giống khai thác đã có dấu hiệu suy giảm. Hơn nữa giống khai thác tự nhiên thường không đảm bảo về mặt chất lượng và số lượng cũng như mùa vụ nuôi.
Từ năm 1993 viện Nghiên cứu Hải sản - Hải Phòng đã tiến hành nghiên cứu sinh sản nhân tạo một số loài cá biển có giá trị kinh tế : cá song, cá giò, cá hồng và cá tráp. Năm 1994 - 1995 tại viện Nghiên cứu Hải sản - Hải Phòng bước đầu đã cho sinh sản được cá song, cá giò, cá hồng và cá tráp, nhưng tỷ lệ sống của cá bột đến cá giống còn rất thấp. Năm 1999 Viện Nghiên cứu Hải sản thành công trong sinh sản nhân tạo cá giò, đã cung cấp trên 10.000 cá giống cỡ 10 -15cm cho ngư dân và một số cơ sở sản xuất nuôi lồng trên biển của Quảng Ninh, Hải Phòng. Kết quả nuôi đạt rất tốt, cá sinh trưởng nhanh đạt 300 - 400gam/3 tháng nuôi, tỷ lệ sống cao, ít bệnh tật. Năm 2002 Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thuỷ sản I đã nhập công nghệ và sản xuất thành công giống cá song tại Cát Bà (Hải Phòng). Đây là kết quả bước đầu rất đáng được trân trọng, bởi nó đã hé mở một khả năng tạo hàng loạt con cá song giống bằng con đường sinh sản nhân tạo, góp phần thúc đẩy nghề nuôi biển phát triển một cách ổn định.
Năm 2005, 2006 Trung tâm khuyến ngư Quốc gia phối hợp với trường Cao đẳng Thuỷ sản đã nhập công nghệ sản xuất giống nhân tạo cá tráp vây vàng và cá hồng đỏ.
1.1.3. Tình hình sản xuất giống nhân tạo cá Chim vây vàng
Đài Loan năm 1986 Lâm Liệt Đường đã thu gom 126 con cá chim vây vàng loại nhỏ, loại vừa và lớn nuôi chung với nhau. Năm 1989 bắt đầu thực nghiệm cho sinh sản nhân tạo, qua 5 lần tiêm kích dục tố trong đó 4 lần cho đẻ trứng thụ tinh thành công, thu được trên 900 vạn trứng số trứng thụ tinh trên 500 vạn trứng, qua nhiều hình thức thực nghiệm ương nuôi cuối cùng thu được 38,6 vạn giống kích cỡ 2 – 3 cm. Đây là lần đầu tiên sinh sản nhân tạo cá chim vây vàng thành công, năm 1991 tăng thêm đàn cá bố mẹ cho tiến hành sinh sản nhân tạo (Lê Tổ Phúc, 2005).
Năm 1993 Trung tâm chuyển giao công nghệ trường Đại học Trung Sơn kết hợp với Trạm nghiên cứu giống thuỷ sản Quảng Đông - Trung Quốc nghiên cứu cho sinh sản nhân tạo thành công cá chim vây vàng trên qui mô nhỏ (ương nuôi ấu trùng trong bể xi măng). Năm 1998 trung tâm kết hợp với Công ty trách nhiệm hữu hạn giống Thuỷ sản Thắng Lợi - Hải Nam - Trung Quốc nghiên cứu thành công sản xuất giống nhân tạo trên qui mô lớn (ương nuôi ấu trùng trong ao đất).
Ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào về sinh sản nhân tạo cá chim vây vàng, các nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở mức độ phân loại. Với mong muốn đóng góp phần nào cho nghề nuôi cá biển Việt Nam,Trường Cao đẳng Thuỷ sản năm 2006 đã nhập công nghệ sản xuất giống cá Chim vây vàng và đã đạt được hiệu quả như tỷ lệ đẻ trung bình 87,5%, tỷ lệ thụ tinh trung bình 60%, tỷ lệ nở trung bình đạt 80%, tỷ lệ sống từ cá bột lên cá hương trung bình đạt 30% và đã sản xuất được 65.000 con giống cỡ 4- 6 cm.
1.2. Đặc điểm sinh học của cá chim vây vàng
1.2.1. Vị trí phân loại và phân bố
Ngành: Vertebrata
Lớp: osteichthyes
Bộ: Perciformes
Họ: Carangidae
Giống: Trachinotus
Loài: Trachinotus blochii (Lacepède 1801)
Tên tiếng Việt: cá chim vây vàng
Tên tiếng Anh: snub-nose pompano
Trachinotus ovatus (non Linnaeus, 1758)
Trachinotus fuscus (Cuvier, 1832)
(Nguồn: trang web của FishBase)
Cá chim vây vàng Trachinotus blochii Lacepède 1801 phân bố ở biển miền Nam Nhật Bản, Tây Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương. Vùng biển nhiệt đới và Á nhiệt đới, vùng biển Đông Nam Á và vùng biển Tây Châu Phi. Ở Trung Quốc chúng phân bố vùng biển Đông Hải, Nam Hải, Hoàng Hải, vùng biển Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Phúc Kiến. Cá Chim vây vàng cũng đã tìm thấy ở vùng biển nước ta.
1.2.2. Đặc điểm hình thái và nhận dạng
Cơ thể hơi tròn, cao và bề bên dẹp chính giữa lưng hình vòng cung. Vây lưng I, V - VI. I.19 - 20. Vòng mông II, I. 17- 18, vây ngực 19, vây bụng 15, vây đuôi 17. Trên đường bên vẩy sắp xếp khoảng 135 – 136 cái, chiều dài so với chiều cao 1,6 - 1,7 lần, so với chiều dài đầu 3,5 - 4 lần, cuống đuôi ngắn và dẹp, đầu nhỏ chiều cao đầu lớn hơn chiều dài. Xương ở chính giữa bề lưng của đầu rõ ràng, chiều dài của đầu so với môi dài 5,1- 6,2 lần, so với đường kính mắt 3,9 - 4,3 lần, môi tù phía trước hình cắt cụt đường
K
Hình 1: Hình dạng cá Chim vây vàng
kính mắt dài hơn môi 1,2 - 1,6 lần. Mắt vị trí về phía trước nhỏ, màng mỡ mắt không phát triển, lỗ mũi môi bên 2 cái gần nhau, lỗ mũi trước nhỏ hình tròn, lỗ mũi sau to hình bầu dục.
Miệng nhỏ xiên, xương hàm trên lồi, hàm trên và hàm dưới có răng nhỏ hình lông, răng phía sau dần thoái hoá, lưỡi không có răng, rìa phía trước xương nắp mang hình cung tương đối to, rìa sau cong. Xương nắp mang phía sau trơn, màng nắp mang tách rời, tia mang 8- 9 cây tia mang ngắn, sắp xếp thưa 5 + 7 – 8 đoạn cuối của tia mang phía trên và dưới có một số thoái hoá, bộ phận đầu không có vảy, cơ thể có nhiều vẩy tròn nhỏ dính vào dưới da. Vây lưng thứ 2 và vây hậu môn có vẩy, phía trước đường bên hình cung cong tròn tương đối lớn, trên đường bên vảy không có gờ, vây lưng thứ 1 hướng về phía trước, gai bằng và có 5 - 6 gai ngắn. Cá giống giữa các gai có màng liền nhau, cá trưởng thành màng thoái hoá thành những gai tách rời nhau, vây lưng thứ 2 có 1 gai và 19 - 20 tia vây, phần trước của vây kéo dài hình như lưỡi liềm. Tia vây dài nhất gấp chiều dài của đầu 1,2 - 1,3 lần, vây hậu môn có 1 gai và 17 - 18 tia vây, phía trước có 2 gai ngắn, vây hậu môn và vây lưng thứ 2 hình dạng như nhau, trong đó tia vây dài nhất gấp 1,1 - 1,2 chiều dài của đầu. Vây ngực tương đối ngắn, ngắn hơn chiều dài của đầu, vây đuôi hình trăng lưỡi liềm. Ruột uốn cong 3 lần (chiều dài ruột/ chiều dài của cá là 0,8). Xương sống 10 + 14, lưng màu tro bạc, bụng màu ánh bạc, mình không có vân đen, vây lưng màu ánh bạc vàng, rìa vây màu tro đen, vây hậu môn màu ánh bạc vàng, vây đuôi màu vàng tro.
1.2.3. Tập tính sống
Cá chim vây vàng là loài cá nước ấm sống ở tầng giữa và tầng trên là loài cá hồi lưu. Ở giai đoạn cá giống hàng năm sau mùa đông thường sống ở vùng vịnh cửa sông, sống theo đàn. Cá trưởng thành bơi ra vùng biển sâu, nhiệt độ thích hợp 16 - 360C, sinh trưởng tốt nhất 22 - 280C, là loài cá thuộc loại rộng muối, phạm vi thích hợp từ 3 - 33‰ dưới 20‰ cá sinh trưởng nhanh, trong điều kiện độ mặn cao tốc độ sinh trưởng của cá chậm. Khả năng chịu đựng nhiệt độ tương đối kém, ban đêm không ngừng bơi nhanh. Hằng năm cuối tháng 12 đến đầu tháng 3 năm sau là thời kỳ qua đông cá không ăn thức ăn, thông thường nhiệt độ thấp dưới 160C cá chim vây vàng ngừng bắt mồi, nhiệt độ thấp nhất mà cá chịu đựng là 140C nếu hai ngày nhiệt độ dưới 140C cá sẽ chết. Oxy hòa tan thấp nhất 2,5 mg/lít. Cá có sức kháng bệnh cao do nuôi chung với các loại khác phát hiện nếu cá song do trùng bánh xe, bệnh đốm trắng, bệnh ngoài da, cá tráp đen, tráp vây vàng bệnh về mang chết hàng loạt còn cá chim vây vàng vẫn bình thường không chịu ảnh hưởng. Việc vận chuyển dễ dàng, cá nuôi ở lồng lưới có thể chuyển vào bể xi măng vẩy của cá không dễ bị bong ra, khả năng vận chuyển không dễ bị tổn thương, khả năng chịu đựng tốt. Trong điều kiện ương nuôi cá con không ăn thịt lẫn nhau.
1.2.4. Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng
1.2.4.1. Đặc điểm dinh dưỡng
Cá chim vây vàng là loài cá ăn thịt, đầu tù, miệng ở phía trước bành ra 2 bên. Cá hương có răng nhỏ, cá trưởng thành răng thoái hóa. Cuống mang ngắn và thưa đặc điểm này khiến cá có thể dùng đầu tìm kiếm thức ăn ở trong cát, cá trưởng thành có thể bắt mồi sinh vật vỏ cứng như ngao, cua, vỏ ốc... Giai đoạn cá bột thức ăn là các loài phù du sinh vật và các động vật đáy, chủ yếu là ấu thể copepoda. Cá con ăn các loại đa mao, các loài hai mảnh vỏ nhỏ. Cá trưởng thành thức ăn chính là các loài tôm, cá nhỏ... Trong điều kiện nuôi cá dài 2cm, thức ăn là cá tạp xay nhỏ, tôm tép xay nhỏ, cá trưởng thành ăn tôm cá băm nhỏ pha thức ăn công nghiệp. Cho ăn vào thời gian buổi sáng hoặc trước hoàng hôn, có thể sử dụng máy tự động cho ăn. Trong điều kiện môi trường nước bình thường cá chim vây vàng có hệ số bắt mồi thay đổi theo nhiệt độ nước.
Bảng 2. Quan hệ giữa hệ số bắt mồi của cá chim vây vàng và sự thay đổi nhiệt độ nước (theo Lâm Cẩm Tôn (1995).
Nhiệt độ nước (t0C)
Dao động
15 - 18
18 - 20
21 - 23
22 - 25
23,6 - 26,4
26,2 - 28,1
27,2 - 28,2
TB
17,0
18,6
21,2
23,6
25,8
27,0
28,0
Hệ số bắt mồi (%)
Dao động
1,2 - 1,9
1,5 - 4,2
2,3 - 5
4 - 11
9,4 - 16
8,8 - 15
8,2 - 17
TB
1,2
3,0
3,4
7,0
13,9
12,6
13,7
1.2.4.2. Đặc điểm sinh trưởng:
Cá chim vây vàng có kích thước tương đối lớn, nhìn chung chiều dài có thể đạt 45 - 60cm.. Cá sinh trưởng nhanh, trong điều kiện nuôi bình thường một năm có thể đạt quy cách cá thương phẩm cỡ 0,5 – 0,7kg. Từ năm thứ hai trở đi mỗi năm trọng lượng tuyệt đối tăng là 1 kg, Trương Bang Kiệt (2001) thực nghiệm nuôi ở ao với cá 0+ tuổi thời kỳ đầu sinh trưởng chậm cá dài 2,6 cm trọng lượng 0,52 g qua 192 ngày nuôi cá dài 9,9 cm, trọng lượng 20,53g bình quân ngày trọng lượng tăng 0,6g, hệ số tăng trưởng ngày 1,04%.
1.2.5. Đặc điểm sinh sản
Mùa sinh sản của cá chim vây vàng từ tháng 4 đến tháng 5 và duy trì cho đến tháng 8 - 9. Sức sinh sản của cá thể 40 - 60 vạn trứng. Trong thiên nhiên cá hương 1,2 - 2cm bắt đầu bơi vào vùng biển cạn, cá lớn 13 - 15cm bắt đầu di cư từ vùng biển cạn ra vùng biển sâu. Tuổi thành thục của cá chim vây vàng theo Phương Vĩnh Cường (1996) qua nghiên cứu chỉ rõ: cá 1- 2 tuổi trong buồng trứng noãn nguyên bào lần đầu tiên tiền kỳ phân liệt thành thục, cá 3 - 4 tuổi mới bắt đầu đi vào thời kỳ tiền sinh trưởng sau đó đến lịch trình phát dục bao gồm phát sinh noãn hoàn phôi bào di chuyển và thành thục, tế bào noãn mẹ thành thục.
Hiện nay, ngoài tự nhiên cá thành thục ở 7 – 8 tuổi nếu muốn cho cá thành thục sớm cần phải tiêm kích dục tố, nuôi vỗ cá bố mẹ một cách khoa học. Trong thực tiễn sản xuất chứng minh: cá chim vây vàng 4 tuổi tuyến sinh dục đạt độ thành thục, qua đó kích thích cá có thể phóng trứng thụ tinh và ấp nở thành cá bột bình thường [6].
1.2.6. Đặc điểm thành thục của đàn cá bố mẹ
Kiểm tra mức độ thành thục của cá thường được tiến hành trước 1 tuần trước khi cá đẻ nhằm:
- Quyết định thời điểm cá đẻ thích hợp.
- Chỉ có cá bố mẹ có tuyến sinh dục thành thục ở mức độ nhất định mới có thể dục đẻ.
Tiêu chuẩn chọn cá cái cho sinh sả