Đề tài Lạm phát tại Việt Nam: thực trạng, nguyên nhân và biện pháp khắc phục từ năm 2009 - 2013

Chốt lại năm 2009, lạm phát tháng 12 cao hơn 6,52% so với cùng kỳ; lạm phát bình quân 12 tháng năm 2009 so với cùng kỳ năm 2008 cao hơn 6,88%. Như vậy, Chính phủ đã kiềm chế lạm phát thành công, ở mức dưới 7%. Nhìn lại diễn biến CPI trong 12 tháng của năm 2009, Tổng cục Thống kê cho rằng, tính quy luật diễn biến giá tiêu dùng hàng tháng đã diễn ra (quy luật này thường xác lập trong những năm nền kinh tế phát triển ổn định, như các năm 2006, hay 2007 trước đó). Cụ thể, giá hàng hóa, dịch vụ thường tăng cao trong hai tháng đầu năm do ảnh hưởng của Tết Nguyên đán, sau đó giảm trong tháng 3 rồi tăng nhẹ từ tháng 4 đến tháng 10, hai tháng cuối năm giá tăng khá cao do áp lực tăng chi tiêu dùng và đầu tư xã hội. Tuy nhiên, việc CPI tháng 12/2009 tăng mạnh, trước thời điểm Tết Nguyên đán tới 2 tháng, là diễn biến sớm so với nhiều năm trước. Nguyên nhân có thể do kỳ vọng về một quy mô thị trường tiêu thụ lớn dịp Tết Nguyên đán, đang khiến nhiều nguồn hàng tiêu dùng thiết yếu bị “găm” lại để chờ thời. Trở lại với diễn biến giá cả tháng 12/2009, động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy CPI tăng mạnh đến từ mặt hàng lương thực, với mức tăng tới 6,88%. Được sự tiếp sức của hàng thực phẩm (tăng 0,89%) và ăn uống ngoài gia đình (tăng 0,69%), nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống “cầm cờ” trong các nguyên nhân tác động đến CPI tháng 12/2009, với mức tăng tới 2,06%. Dù quyền số thấp hơn nhưng mức tăng cao hơn, nhóm giao thông tháng 12 xác lập mức tăng cao nhất, với 2,47%. Nguyên nhân chủ yếu đến từ đợt tăng giá xăng dầu cuối tháng 11/2009.

doc13 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2737 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lạm phát tại Việt Nam: thực trạng, nguyên nhân và biện pháp khắc phục từ năm 2009 - 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH THÁI NGUYÊN BÀI THẢO LUẬN Lạm phát tại Việt Nam: thực trạng, nguyên nhân và biện pháp khắc phục từ năm 2009 - 2013 Môn: Tài chính tiền tệ Thực trạng lạm phát tại Việt Nam từ năm 2009 - 2013 1. Thực trạng lạm phát năm 2009 Chốt lại năm 2009, lạm phát tháng 12 cao hơn 6,52% so với cùng kỳ; lạm phát bình quân 12 tháng năm 2009 so với cùng kỳ năm 2008 cao hơn 6,88%. Như vậy, Chính phủ đã kiềm chế lạm phát thành công, ở mức dưới 7%. Nhìn lại diễn biến CPI trong 12 tháng của năm 2009, Tổng cục Thống kê cho rằng, tính quy luật diễn biến giá tiêu dùng hàng tháng đã diễn ra (quy luật này thường xác lập trong những năm nền kinh tế phát triển ổn định, như các năm 2006, hay 2007 trước đó). Cụ thể, giá hàng hóa, dịch vụ thường tăng cao trong hai tháng đầu năm do ảnh hưởng của Tết Nguyên đán, sau đó giảm trong tháng 3 rồi tăng nhẹ từ tháng 4 đến tháng 10, hai tháng cuối năm giá tăng khá cao do áp lực tăng chi tiêu dùng và đầu tư xã hội. Tuy nhiên, việc CPI tháng 12/2009 tăng mạnh, trước thời điểm Tết Nguyên đán tới 2 tháng, là diễn biến sớm so với nhiều năm trước. Nguyên nhân có thể do kỳ vọng về một quy mô thị trường tiêu thụ lớn dịp Tết Nguyên đán, đang khiến nhiều nguồn hàng tiêu dùng thiết yếu bị “găm” lại để chờ thời. Trở lại với diễn biến giá cả tháng 12/2009, động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy CPI tăng mạnh đến từ mặt hàng lương thực, với mức tăng tới 6,88%. Được sự tiếp sức của hàng thực phẩm (tăng 0,89%) và ăn uống ngoài gia đình (tăng 0,69%), nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống “cầm cờ” trong các nguyên nhân tác động đến CPI tháng 12/2009, với mức tăng tới 2,06%. Dù quyền số thấp hơn nhưng mức tăng cao hơn, nhóm giao thông tháng 12 xác lập mức tăng cao nhất, với 2,47%. Nguyên nhân chủ yếu đến từ đợt tăng giá xăng dầu cuối tháng 11/2009. Những hàng hóa, dịch vụ có chu kỳ tăng cuối năm cũng đang rục rịch tăng giá. Chỉ số giá nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng tháng này cũng tăng mạnh tới 1,4% do giá sắt thép, vật liệu xây dựng tiếp tục xu hướng tăng và thị trường bước vào mùa hoàn thiện công trình xây dựng. Tương tự là nhóm đồ uống, thuốc lá tăng tới 0,97%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,81%; các nhóm còn lại tăng không nhiều trong tháng 12/2009. Trong 11 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu, duy nhất chỉ số giá tháng 12/2009 nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,11% so với tháng trước đó. Trong một tháng, chỉ số giá vàng đã tăng 10,49%; chỉ số giá USD tăng 3,19%. So với một năm trước, các con số tương ứng là 64,32% và 10,7%. Bình quân cả năm 2009 so với năm 2008 tương ứng tăng 19,16% và 9,17%. CPI tháng 12/2009 đã đạt mức tăng cao nhất so với các tháng trong năm nay. Trước đó, kỷ lục thuộc về tháng 2 với mức tăng 1,17%. Xu thế tăng chỉ số giá xác lập từ tháng trước, nay đã được khẳng định (tháng 11 chỉ tăng 0,55%; tháng 10/2009 tăng nhẹ 0,37%...). Một số nhận định cho rằng, CPI dường như đang bước vào giai đoạn tăng tốc nước rút cuối năm âm lịch. Đồng quan điểm này, Tổ thị trường trong nước (Bộ Công Thương) trước đó cho rằng, việc giá cả hàng hoá thế giới tiếp tục tăng ở mức cao cùng với việc điều chỉnh tỉ giá USD/VND đã tác động tới nhiều loại hàng hoá nhập khẩu, hoặc phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu. Trong khi đó, tác động của tăng giá xăng dầu cuối tháng 11 cũng làm "đội giá" cước vận tải, vận chuyển và các hàng hoá khác; lãi suất cơ bản tăng từ 7 lên 8% áp dụng từ 1/12 cũng tác động tới lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại, ảnh hưởng tới chi phí vốn của doanh nghiệp. Ngoài ra, giá gạo, đường, thịt tươi sống, thủy sản, hàng may mặc, vật liệu xây dựng vẫn trong xu hướng tăng, cũng là nguyên nhân đẩy chỉ số giá tăng ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Về nguyên nhân tiền tệ, những con số mới nhất cho biết, tăng trưởng tín dụng năm 2009 đã tăng 37,73%. Năm 2009 khép lại với mức tăng CPI trong vòng kiểm soát, nhưng gạo và xăng dầu, hai mặt hàng có quyền số lớn trong rỏ hàng hóa, dịch vụ tính CPI vẫn luôn là yếu tố bất định trong năm 2009. 2. Thực trạng lạm phát năm 2010 Theo tin từ Tổng cục thống kê, chỉ số tiêu dùng (CPI) tháng 12/2010 của cả nước tăng 1,98%, qua đó đẩy mức lạm phát năm của cả nước 2010 lên 11,75% so với năm 2009. Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm 2010 (khoảng 8%). Trong khi đó, nếu tính bình quân theo từng tháng (cách tính mới của Tổng cục thống kê), chỉ số lạm phát năm 2010 tăng 9,19% so với năm 2009. Trong tháng 12, CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,31% trong đó nhóm lương thực tăng 4,67%, thực phẩm tăng 3,28% so với tháng 11. Ngành bưu chính viễn thông giảm nhẹ 0,02% so với tháng trước. Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%. Tiếp đó là hàng ăn (16,18%), nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Các ngành Giao thông, hàng hóa & dịch vụ khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010. Trong năm 2010, chỉ số giá vàng tăng 36,72%, chỉ giá USD tăng 7,63%. Về CPI của các vùng miền, đáng chú ý là chỉ số CPI khu vực nông thôn tháng 12 tăng 2,04%; cao hơn 1,87% của khu vực thành thị. 3. Thực trạng lạm phát năm 2011 Mức tăng CPI từ tháng 1 đến tháng 12/2011 ở Việt Nam được thể hiện trong bảng sau: Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Mức tăng CPI (%) 1,74 2,09 2,17 3,32 2,21 1,09 1,17 0,93 0,82 0,36 0,39 0,53 - Tháng 1/2011: So với tháng 12/2010, CPI cả nước tháng 1/2011 tăng 1,74%. So với tháng 1/2010, CPI tháng 1 năm 2011 tăng 12,17%. Những nhóm hàng có CPI tăng mạnh so với tháng 12/2010 gồm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, nhóm hàng giáo dục và nhóm hàng đồ uống, thuốc lá. - Tháng 2/2011: CPI tháng 2/2011 tăng 2,09% so với tháng trước. So với cùng kỳ 2010, CPI tháng 2 tăng 12,31% và tăng 3,87% so với tháng 12/2010. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống là nhóm hàng có chỉ số giá tăng nhanh nhất là 3,65%. - Tháng 3/2011: CPI tháng 3/2011 tăng 2,17% so với tháng 2, và tăng 6,12% so đầu năm và tăng 13,89% so với cùng kỳ năm trước. CPI tháng 3 có mức tăng cao nhất kể từ tháng 6/2008. Mức tăng cao nhất thuộc về nhóm giao thông với mức tăng 6,69% do chịu tác động mạnh của đợt điều chỉnh giá xăng dầu. - Tháng 4/2011: So với tháng 3/2011, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tháng 4 tăng 3,32%. Nhóm hàng giao thông có mức tăng lớn nhất 6,04%. Nguyên nhân chính là giá xăng dầu tăng mạnh gây áp lực tăng giá ở nhóm hàng này. - Tháng 5/2011: So với tháng 4/2011, CPI cả nước tháng 5 tăng 2,21%. Trong số 11 nhóm hàng tính giá chỉ có nhóm Bưu chính viễn thông là giảm so với cùng kỳ với mức giảm 1,68%. Nhóm hàng có mức tăng giá mạnh nhất là nhà ở và vật liệu xây dựng (nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng) với mức tăng 3,19%. - Tháng 6/2011: So với tháng 5/2011, CPI cả nước tháng 6 tăng 1,09% – mức thấp nhất trong 6 tháng đầu năm 2011. Tăng mạnh nhất là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống với mức tăng 1,79%. - Tháng 7/2011: so với tháng 6/2011, CPI cả nước tháng 7 tăng 1,17%, tăng 14,61% so với tháng 12/2010 và tăng 22,16% so với tháng 7/2010. Tăng mạnh nhất vẫn là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống với mức tăng 2,12%. - Tháng 8/2011: So với tháng 7/2011, CPI cả nước tháng 8 tăng 0,93%, tăng 17,64% so với cùng kỳ năm 2010 – đây là tháng có mức tăng thấp nhất trong 12 tháng qua kể từ tháng 8/2010. Nhóm có mức tăng mạnh nhất vẫn là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống với 1,35%. - Tháng 9/2011: So với tháng 8/2011, CPI cả nước tháng 9 tăng 0,82%, tăng 22,42% so với tháng 9/2010. Nhóm có mức tăng cao nhất là giáo dục. - Tháng 10/2011: So với tháng 9/2011, CPI cả nước tháng 10 tăng 0,36%, tăng 21,59% so với tháng 10/2010. Nhóm tăng mạnh nhất là giáo dục với mức tăng là 3,2%. - Tháng 11/2011: so với tháng 10/2011, CPI cả nước tháng 11 tăng 0,39%, so với đầu năm 2011 tăng 17,5%. Nếu so với cùng kỳ năm 2010, CPI 11 tháng đầu năm 2011 tăng 18,62%. Nhóm hàng có mức tăng giá mạnh nhất là nhóm hàng may mặc, mũ nón, giày dép với 0,65%. - Tháng 12/2011: So với tháng 11/2011, CPI cả nước tháng 12 tăng 0,53%, đẩy CPI cả nước tháng 12/2011 tăng 18,13% so với tháng 12/2010. Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng mạnh nhất với mức tăng 0,86%. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì tỷ lệ lạm phát cả năm 2011 lên tới 18,58% với 4 nhóm mặt hàng có mức tăng mạnh nhất bao gồm: lương thực và thực phẩm (24,8%), giáo dục (20,41%), phương tiện đi lại (19,04%) và nhà ở và vật liệu xây dựng (17,29%). Trong đó, đáng chú ý nhất là nhóm lương thực và thực phẩm, nếu loại trừ nhóm này thì CPI chỉ tăng khoảng 7,8% trong năm 2011. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư do Bộ trưởng Bùi Quang Vinh trình bày tại Hội nghị Chính phủ mở rộng ngày 22/12/2011 thì tính cả năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân đã tăng 18,12%. Bộ trưởng đánh giá, CPI năm 2011 chủ yếu tăng cao trong những tháng đầu năm và giảm dần trong những tháng cuối năm. Trong 4 tháng cuối năm, CPI có dấu hiệu giảm tốc, chỉ tăng dưới 1% mỗi tháng và tháng sau thấp hơn tháng trước.Trong kỳ họp cuối năm 2010, Quốc hội đã thông qua chỉ tiêu CPI năm 2011 không quá 7%. Đến giữa năm 2011, trước tình hình lạm phát tăng cao, Chính phủ đã đề nghị nới lỏng chỉ tiêu CPI cả năm lên không quá 17%, tuy nhiên cả năm 2011 thì chỉ số CPI bình quân đã tăng vượt mục tiêu ban đầu đã được Quốc hội phê chuẩn. Tháng 5/2011, Liên Hợp Quốc đã nhận định Việt Nam là một trong 5 quốc gia có tỉ lệ lạm phát cao nhất thế giới. Nhưng so với cùng kì năm 2008 khi mức lạm phát lên đến 28,3 % và thời kì siêu lạm phát vào thập kỉ 80 (năm 1886 tỷ lệ lạm phát lên đến 775%) thì mức lạm phát trong tháng 8/2011 ở Việt Nam vẫn còn thấp hơn nhiều. 4. Thực trạng lạm phát năm 2012 Như dự báo trước của nhiều tổ chức, lạm phát của Việt Nam năm 2012 chỉ tăng 6,81%, thấp hơn nhiều so với ngưỡng dưới 10% mà Chính phủ đặt mục tiêu. Theo công bố của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 năm nay tăng 0,27% so với tháng 11 và tăng 6,81% so với tháng 12/2011. CPI bình quân năm 2012 tăng 9,21% so với bình quân năm 2011. Tháng 12 so với tháng 11, nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng mạnh nhất, tới 1,17%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng cao hơn mức tăng chung nhưng cũng đều dưới 1% là thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,59%, văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,34%, đồ uống và thuốc lá tăng 0,32%. Nhóm có tỷ trọng lớn nhất trong “rổ” hàng hóa tính CPI là hàng ăn và dịch vụ ăn uống chỉ tăng khiêm tốn là 0,28% (Lương thực tăng 0,13%; thực phẩm tăng 0,28%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,4%). Những nhóm hàng “nhạy cảm”, vốn tác động mạnh tới CPI trong nhiều tháng trước thì ở tháng này, lại tăng thấp hơn cả mức tăng chung. Đó là nhà ở và vật liệu xây dựng chỉ tăng 0,15%, nhóm giáo dục tăng 0,09% trong đó, dịch vụ giáo dục tăng 0,05%, nhóm giao thông giảm 0,43%... Sau 2 tháng liên tiếp tăng kỷ lục tới 10-20%, Chính phủ yêu cầu giãn thời gian tăng giá viện phí thì các thuốc và dịch vụ y tế chỉ còn tăng 0,14%, trong đó, dịch vụ y tế tăng 0,03%. Nhìn lại năm 2012, Tổng cục Thống kê đánh giá, lạm phát năm nay chỉ “nhỉnh” hơn mức tăng 6,52% của năm 2009 – năm suy giảm kinh tế mạnh và thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75% của năm 2010 và mức tăng 18,13% của năm 2011. 5. Thực trạng lạm phát năm 2013 Theo Tổng cục Thống kê, CPI trong sáu tháng đầu năm 2013 tăng 2,4% và là mức tăng CPI thấp nhất so với cùng kỳ trong 10 năm qua. CPI tháng 7-2013 chỉ tăng 0,27% so với tháng trước và tăng 2,68% so với tháng 12-2012, chủ yếu do ảnh hưởng bởi giá xăng dầu được điều chỉnh tăng hai đợt vào ngày 14-6-2013 và ngày 28-6-2013, làm chỉ số giá nhóm này tăng 2,38% so với tháng trước, đóng góp vào chỉ số giá chung 0,09%. CPI tháng 8-2013 tăng 0,83% so với tháng trước; tăng 3,53% so với tháng 12-2012 và tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân tám tháng đầu năm nay tăng 6,90% so với bình quân cùng kỳ năm 2012. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng cao hơn mức tăng chung là: Thuốc và dịch vụ y tế tăng 4,11% (dịch vụ y tế tăng 5,09%); giao thông tăng 1,11%; giáo dục tăng 0,9% (dịch vụ giáo dục tăng 0,86%); nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,88%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm gồm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,54% (lương thực tăng 0,7%; thực phẩm tăng 0,62%); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,44%; hai nhóm đồ uống và thuốc lá và văn hóa, giải trí và du lịch đều tăng 0,27%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,22%; bưu chính viễn thông giảm 0,02%. Chỉ số giá đô-la Mỹ tháng 8/2013 tăng 0,06% so với tháng trước; tăng 1,59% so với tháng 12/2012; tăng 1,63% so với cùng kỳ năm 2012. Chỉ số giá vàng tháng 8/2013 tăng 0,32% so với tháng trước; giảm 20,17% so với tháng 12/2012; giảm 13,43% so với cùng kỳ năm trước. Ngân hàng Nhà nước cho biết, kết quả cuộc điều tra kỳ vọng lạm phát của các tổ chức tín dụng cho thấy, các tổ chức này kỳ vọng CPI tháng 12/2013 chỉ tăng 0,62% so với tháng 11/2013, cao hơn mức tăng cùng kỳ 2 năm trước (0,27% tháng 12/2012 và 0,53% tháng 12/2011). Theo nhận định của Ngân hàng Nhà nước, đến nay, có thể nói mục tiêu kiềm chế lạm phát trong năm 2013 gần như đã thành hiện thực theo chỉ tiêu đề ra. Với tốc độ tăng CPI thực tế trong 11 tháng vừa qua cùng với mức kỳ vọng 0,62% trong tháng 12/2013, lạm phát cả năm 2013 có khả năng đạt khoảng 6,15% và vẫn nằm trong tầm kiểm soát của Chính phủ. Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam 1. Nguyên nhân bên trong - Thứ nhất, do tốc độ tăng trưởng tín dụng quá cao nhưng chất lượng thấp. Trong giai đoạn 2007-2009 tốc độ tăng trưởng tín dụng trung bình đạt mức 25 – 30%, đặc biệt năm 2009 khi Chính phủ thực hiện gói kích cầu trị giá gần 08 tỷ USD để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ trên thế giới, trong đó nổi bật là chương trình cho vay hỗ trợ lãi suất 4% trị giá 17.000 tỷ VNĐ (01 tỷ USD), thì chỉ riêng gói HTLS này đã đưa hơn 400.000 tỷ VNĐ vào lưu thông. Đầu tư của toàn xã hội cũng duy trì mức trên 40% GDP trong giai đoạn 2005 – 2009. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng tín dụng và đầu tư toàn xã hội ở mức khá cao so với nhiều quốc giá khác tuy nhiên tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn này chỉ trung bình ở mức 6 – 7%. - Thứ hai, do đầu tư công dàn trải và thiếu hiệu quả. Đây là nguyên nhân sâu xa gây ra thực trạng lạm phát như hiện nay. Theo thống kê mỗi năm Việt Nam đầu tư công khoảng 17-20% GDP, trong khi các nước trong khu vực chỉ dưới 5% như Trung Quốc 3,5%, Indonesia 1,6%. Tuy nhiên hiệu quả đầu tư công của Việt Nam hiện còn rất kém, điển hình như hoạt động thua lỗ của Vinashin, công ty cho thuê tài chính VFII - Thứ ba, do tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại diễn ra trong thời gian dài: Trong giai đoạn 2005 – 2010 liên tục gia tăng từ mức 7,1 nghìn tỷ năm 2005 lên mức 115.900 tỷ đồng năm 2009 và mức 69 nghìn tỷ năm 2010; nhập siêu cũng gia tăng mạnh từ mức 4,3 ỷ USD lên mức 12,2 tỷ USD năm 2009 và ước xấp xỉ 12,4 tỷ USD năm 2010. Nhập siêu trong 5 tháng đầu năm 2011 đã lên đến 6,4 tỷ USD. - Thứ tư, do sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng cuối cùng, hay đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10% hàng năm, phải nhập siêu, phải vay nợ từ nước ngoài để bù đắp. Khi tổng cầu vượt quá tổng cung thì Việt Nam không chỉ ở vị thế nhập siêu, mà còn rất dễ rơi vào lạm phát cao, nếu có sự bất ổn ở bên ngoài (khủng hoảng, lạm phát) và có trục trặc ở bên trong (thiên tai, dịch bệnh, bất ổn vĩ mô). Vốn đầu tư/GDP gia tăng từ 34,9% trong thời kỳ 1996-2000 lên 39,1% trong thời kỳ 2001-2005 và lên 43,5% trong thời kỳ 2006-2010. Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam đã tăng tương ứng từ 71,1% thời kỳ 2001-2005 lên 72,2% thời kỳ 2006-2010. Đây là tỷ lệ cao so với một số nước (năm 2009 của Việt Nam là 72,8%, trong khi của Brunei là 47%, Trung Quốc 48,7%, Singapore 52,4%, Malaysia 64%, Indonesia 68,2%, Thái Lan 68,3%, Ấn Độ 69,6%, Hàn Quốc 70,3%). Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do quy mô GDP bình quân đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu hướng tăng lên; nhưng có một phần do đã xuất hiện tình trạng “ăn chơi sớm” và chuộng hàng ngoại của một bộ phận dân cư. - Thứ năm, do năng suất lao động xã hội của Việt Nam còn thấp: Năng suất lao động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,3 triệu đồng/người, chỉ tương đương với 2.067 USD, thấp xa so với các con số tương ứng của một số nước (năm 2008 của Nhật Bản 73.824 USD, Brunei 72.500 USD, Singapore 62.724 USD, Hàn Quốc 38.235 USD, Malaysia 17.718 USD, Thái Lan 6.915 USD, Trung Quốc 5.460 USD, Indonesia 4.597 USD, Philippines 4.535 USD, Ấn Độ 2.706 USD). - Thứ sáu, do tình trạng vàng hóa và Đô la hóa khá cao, đã tác động tiêu cực đối với lạm phát trên 4 mặt sau: (1) Hút vào đây một lượng vốn lớn của xã hội mà không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm để cân đối với tiền; (2) Vàng và USD trở thành phương tiện thanh toán, làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng lên; (3) Giá vàng trong nước biến động, nhiều lần cao hơn giá vàng thế giới, tác động tới nhập lậu, kéo tỷ giá biến động theo. Khi giá vàng và tỷ giá tăng cao lại tác động đến tâm lý, đến lòng tin vào đồng nội tệ; (4) Tỷ giá tăng tuy khuyến khích xuất khẩu, nhưng lại làm khuyếch đại lạm phát ở trong nước và đây là yếu tố lạm cho lạm phát của Việt Nam cao hơn lạm phát của thế giới; làm tăng nợ quốc gia khi tính bằng VND. 2. Nguyên nhân bên ngoài - Thứ nhất, do giá cả trên thế giới tăng: do bất ổn chính trị tại Bắc Phi, Trung Đông và một số nơi khác trên thế giới làm giá cả nhiều mặt hàng nguyên, nhiên, vật liệu quan trọng cho sản xuất tăng liên tục trong những tháng cuối năm 2010 và 4 tháng đầu năm 2011, nhất là xăng dầu, sắt thép, nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu sữa đã tác động đến giá đầu vào sản xuất trong nước. Ngoài ra, giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh trên thế giới – là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả những điều trên làm sản lượng lương thực – thực phẩm ngày càng giảm mạnh. Ngoài ra, giá năng lượng tăng cao đã khiến nhiều nước sử dụng một sản lượng lớn ngũ cốc chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm cho nguồn cung lương thực đã giảm càng giảm sút. Có thể thấy, giá thế giới tăng sẽ làm cho chi phí đẩy ở trong nước tính bằng VND tăng kép: vừa tăng do đơn giá tính bằng USD tăng, vừa tăng do tính bằng VND tăng. - Thứ hai, do có một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu: Trước việc giá dầu và giá lương thực – thực phẩm liên tục leo thang đã tạo nên cú sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đã buộc các ngân hàng trung ương phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật Bản tăng 1 lần từ 0,25%- 0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5%-3,75%-4,0%/năm; Anh tăng 3 lần từ 5%-5,5%/năm (trong đó có 1 lần giảm); Thụy Điển tăng 4 lần từ 3,0%-4,0%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12-7,47%/năm. Việc cứu vãn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao. III. Những biện pháp khắc phục lạm phát tại Việt Nam Những biện pháp cơ bản chiến lược - Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đúng đắn: ở Việt Nam, kể từ khi đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có điều tiết, đã có tác dụng rất to lớn. - Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển ngành mũi nhọn: ổn định cơ cấu kinh tế nhằm đáp ứng được nhu cầu cơ bản về đời sống và việc làm của người lao động, do đó tùy hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà có những chiến lược điều chỉnh cơ cấu kinh tế khác nhau. Ở Việt Nam cơ cấu kinh tế được điều chỉnh theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, trước mắt nông – lâm - ngư nghiệp vẫn giữ vị trí quan trọng, phát triển mạnh mẽ các ngành dịch vụ (ngân hàng - bưu điện - du lịch) Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo cho nền kinh tế phát triển mạnh và ch
Luận văn liên quan