Trong cuộc thi “Hình trình văn hóa” có một câu hỏi dành cho khán giả truyền hình. Họ chỉ quay hình ảnh một người thanh niên đang đánh trống, trên mặt trống có hình tròn thái cực và hỏi đó là hình ảnh về đất nước nào? Đó chính là đất nước Hàn Quốc. Hàn Quốc của hôm nay không còn như một “đống tro tàn đổ nát” trong những năm 60 của thế kỷ 20 mà đã vươn mình trở thành một trong bốn “con rồng kinh tế châu Á”. Hàn Quốc của hôm nay: tự tin, năng động, tham vọng, đầy tính cạnh tranh, nỗ lực không chỉ để bắt kịp thời đại mà còn để hướng tới tương lai. Quả thật, ngày nay, khi nhắc tới Hàn Quốc người ta thường xuyên nhắc tới một “Korea Wave” – làn sóng Hàn Quốc. Có thể xem đây là một trào lưu đưa hình ảnh về một Hàn Quốc năng động về kinh tế, hấp dẫn về du lịch, giàu bản sắc về văn hóa ra toàn cầu. Và ngành điện ảnh nước này không nằm ngoài “cơn sốt văn hóa” đó. Những tên tuổi diễn viên, bộ phim Hàn được người ta nhắc tới thường xuyên trên báo chí, truyền hình và trong đời sống thường ngày. Tôi băn khoăn tự hỏi: Làn sóng điện ảnh Hàn Quốc có gì mà hấp dẫn đến thế? Câu hỏi đó đã thôi thúc tôi đi vào tìm hiểu về trào lưu này với một ý thức tiếp cận văn hóa.
Thực ra, đã có nhiều bài viết về ngành nghệ thuật thứ 7 của đất nước Hàn Quốc được in trên báo hay sách. Nhưng tôi thiết nghĩ đề tài điện ảnh không bao giờ là cũ cả. Hơn nữa đây lại là một trào lưu điện ảnh trong thế kỷ 21 nên nó mang tính thời sự cập nhật cao và có ý nghĩa thực tế. Được sự giúp đỡ của giảng viên – thạc sỹ Lê Thị Thu Giang, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: Làn sóng điện ảnh Hàn Quốc những năm đầu thế kỷ 21.
Để hoàn thành bản báo cáo khoa học này, tôi đã sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích những tài liệu thu thập từ nhiều nguồn khác nhau trên báo chí và mạng Internet.
Với mục đích tìm hiểu về làn sóng hâm mộ phim Hàn, tôi xin đi vào nghiên cứu trên phạm vi không gian là: mức độ ảnh hưởng của làn sóng này chủ yếu trong khu vực châu Á. Về phạm vi thời gian là: những năm đầu thế kỷ 21.
39 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5084 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Làn sóng điện ảnh Hàn Quốc những năm đầu thế kỷ XXI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC
_ ***_
BÁO CÁO KHOA HỌC
Đề tài:
LÀN SÓNG ĐIỆN ẢNH HÀN QUỐC Ở CHÂU Á
TRONG THẾ KỶ 21
Giáo viên hướng dẫn : Thạc sĩ Lê Thị Thu Giang
Sinh viên thực hiện : Vũ Thị Thu
Lớp : K48 Hàn Quốc
Khóa : 2003 – 2007
Hà Nội, 30 - 12 - 2005
Bố cục
Chương I: Mở đầu
Chương II: Giới thiệu về làn sóng Hàn Quốc
2. 1. Thế nào là làn sóng Hàn Quốc
2. 2. Sự phát triển của làn sóng Hàn Quốc
Chương III: Làn sóng Hàn Quốc trong lĩnh vực điện ảnh
3. 1. Giới thiệu về nền điện ảnh Hàn Quốc
3. 2. Làn sóng điện ảnh Hàn Quốc ở khu vực châu Á
3. 3. Làn sóng điện ảnh Hàn Quốc ở Mỹ, Tây Âu và các nước khác
3. 4. Làn sóng điện ảnh Hàn Quốc ở Việt Nam
Chương IV: Nguyên nhân thành công của làn sóng điện ảnh Hàn Quốc
4. 1. Sự quan tâm của chính phủ
4. 2. Đầu tư về kinh phí
4. 3. Một êkíp làm phim hoàn hảo
4. 3. 1. Diễn viên
4. 3. 2. Kịch bản
4. 3. 3. Đội ngũ hậu cần chuyên môn
4. 4. Hình thức quảng cáo cho phim
Chương V: Những hạn chế của làn sóng điện ảnh Hàn Quốc
Chương VI: Bài học cho Việt Nam
Chương VII: Kết luận
Chương I: MỞ ĐẦU
Trong cuộc thi “Hình trình văn hóa” có một câu hỏi dành cho khán giả truyền hình. Họ chỉ quay hình ảnh một người thanh niên đang đánh trống, trên mặt trống có hình tròn thái cực và hỏi đó là hình ảnh về đất nước nào? Đó chính là đất nước Hàn Quốc. Hàn Quốc của hôm nay không còn như một “đống tro tàn đổ nát” trong những năm 60 của thế kỷ 20 mà đã vươn mình trở thành một trong bốn “con rồng kinh tế châu Á”. Hàn Quốc của hôm nay: tự tin, năng động, tham vọng, đầy tính cạnh tranh, nỗ lực không chỉ để bắt kịp thời đại mà còn để hướng tới tương lai. Quả thật, ngày nay, khi nhắc tới Hàn Quốc người ta thường xuyên nhắc tới một “Korea Wave” – làn sóng Hàn Quốc. Có thể xem đây là một trào lưu đưa hình ảnh về một Hàn Quốc năng động về kinh tế, hấp dẫn về du lịch, giàu bản sắc về văn hóa ra toàn cầu. Và ngành điện ảnh nước này không nằm ngoài “cơn sốt văn hóa” đó. Những tên tuổi diễn viên, bộ phim Hàn được người ta nhắc tới thường xuyên trên báo chí, truyền hình và trong đời sống thường ngày. Tôi băn khoăn tự hỏi: Làn sóng điện ảnh Hàn Quốc có gì mà hấp dẫn đến thế? Câu hỏi đó đã thôi thúc tôi đi vào tìm hiểu về trào lưu này với một ý thức tiếp cận văn hóa.
Thực ra, đã có nhiều bài viết về ngành nghệ thuật thứ 7 của đất nước Hàn Quốc được in trên báo hay sách. Nhưng tôi thiết nghĩ đề tài điện ảnh không bao giờ là cũ cả. Hơn nữa đây lại là một trào lưu điện ảnh trong thế kỷ 21 nên nó mang tính thời sự cập nhật cao và có ý nghĩa thực tế. Được sự giúp đỡ của giảng viên – thạc sỹ Lê Thị Thu Giang, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: Làn sóng điện ảnh Hàn Quốc những năm đầu thế kỷ 21.
Để hoàn thành bản báo cáo khoa học này, tôi đã sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích những tài liệu thu thập từ nhiều nguồn khác nhau trên báo chí và mạng Internet.
Với mục đích tìm hiểu về làn sóng hâm mộ phim Hàn, tôi xin đi vào nghiên cứu trên phạm vi không gian là: mức độ ảnh hưởng của làn sóng này chủ yếu trong khu vực châu Á. Về phạm vi thời gian là: những năm đầu thế kỷ 21.
CHƯƠNG II: GIỚI THIỆU VỀ LÀN SÓNG HÀN QUỐC
2 . 1 Thế nào là làn sóng Hàn Quốc.
Làn sóng Hàn Quốc hay còn gọi là Hallyu, “Korea wave” hay “Dynamic Korea” là một hiện tượng văn hóa những năm đầu thế kỷ 21 nhằm quảng bá hình ảnh về một đất nước Hàn Quốc năng động. Nghĩa gốc của Hallyu là làn sóng mạnh. Cụm từ này đã thể hiện đúng sức ảnh hưởng mạnh mẽ của làn sóng Hàn Quốc tại các quốc gia trên thế giới. Có thể nói đã quét rộng khắp châu Á, sang cả Mỹ, Tây Âu, Bắc Phi. Và ta cần phải phân biệt “Làn sóng Hàn Quốc” ở đây không giống như những làn sóng mang tính nhất thời, đơn giản như làn sóng Hippy, làn sóng theo kiểu mốt thời trang v.v… mà “làn sóng Hàn Quốc” là những đợt sóng mãnh liệt mang theo những nét đẹp của văn hóa Hàn Quốc ào ạt tràn vào bờ văn hóa của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Nó không giống như những đợt thuỷ triều lên lại xuống, cũng không giống như con sóng nhỏ nhoi yếu ớt mà nó giống như những đợt sóng ồ ạt, tuôn trào bỗng nhiên ập đến, tác động một cách mạnh mẽ với tầm quy mô rộng lớn và một tốc độ như vũ bão. Quả thật sức lôi cuốn mãnh liệt của Hallyu đã xâm nhập vào từng người nhà của chúng ta.
2. 2. Sự phát triển của làn sóng Hàn Quốc.
Vào cuối thập niên 90, khi mà người xem truyền hình đã nhàm chán với những phim tình cảm sướt mướt của Singapo, những phim võ thuật cổ trang của Hồng Kông, thì những bộ phim truyền hình tình cảm nhẹ nhàng của Hàn Quốc xâm chiếm thị trường châu Á. Sau đó cơn bão trào lưu Hàn Quốc đã bắt đầu chinh phục không chỉ các nước châu Á mà còn vươn xa tới tận châu Âu và Mỹ La tinh.
Từ năm 1998 đến năm 2002 là thời kỳ “hoàng kim” của trào lưu này. Bằng những thành tựu đạt được, nó phủ định hoàn toàn những nghi ngờ của công chúng trước đó cho rằng đây chỉ là một cơn sốt nhất thời theo kiểu mốt thời trang như làn sóng Hippy chẳng hạn. Suy nghĩ đó thật sai lầm bởi trào lưu Hàn Quốc đã thực sự lấn sân ở hầu hết mọi quốc gia và trên mọi lĩnh vực: điện ảnh, âm nhạc, thời trang, du lịch, game online v.v… Nó thực sự chứng minh cho chúng ta thấy một Hàn Quốc năng động và tràn đầy sức sống.
Ta có thể dễ dàng nhận ra trong cuộc sống hàng ngày, hình ảnh Hàn Quốc đã trở nên quá đỗi quen thuộc. Ra đường, ta bắt gặp những thanh niên nam nữ tóc nhuộm highlight, ăn mặc sành điệu như những diễn viên Hàn Quốc, trang điểm bằng những mỹ phẩm Hàn Quốc và hý hoắy nhắn tin bằng chiếc điện thoại di động Samsung. Vào một quán Cafe, ta nghĩ mình sẽ được nghe một bản nhạc Việt Nam hay một bài hát đang “hot” trên MTV quốc tế, nhưng không, đó là một giai điệu quen thuộc mà ta từng nghe, à thì ra đó là bài hát trong bộ phim “Bản tình ca mùa đông”. Rồi lúc tán gẫu với bạn bè, chủ đề được bàn tới nhiều nhất là chuyện phim “Ngôi nhà hạnh phúc” đang trình chiếu. Và hãy thử quan sát đồ dùng của một gia đình hiện đại xem: chiếc tivi: LG, tủ lạnh LG, máy giặt LG, di động Samsung, dầu gội đầu Double Rich, mỹ phẩm Debon v.v… Và hãy thử quay một góc nhỏ sinh hoạt xem: mẹ nấu ăn bằng bột ngọt Miwon, bố đang dựng chiếc xe Daehan, cô con gái út đang xem phim “Nàng Dae Jang Gum”, cậu con trai mải mê với trò game “Chuyện cổ tích” (Legend) – một trò chơi trên mạng của Hàn Quốc đang cực kỳ phổ biến. Phải có một sức lôi cuốn mạnh đến mức nào thì cơn sốt văn hóa Hàn mới lan tỏa rộng lớn đến như vậy, trong từng sinh hoạt, từng thiết bị gia đình, từng câu chuyện và nếp nghĩ. Đó chính là nhờ ảnh hưởng của Hallyu.
Chính phủ Hàn Quốc đã và đang xây dựng , quảng bá một “thương hiệu” về “Hàn quốc năng động” nhằm thu hút sự chú ý của cả thế giới. Và vai trò của ngành điện ảnh như toa tầu đầu tiên khởi động để kéo theo những toa tầu du lịch, thời trang, ẩm thực, thể thao, kinh tế…đi khắp toàn cầu. Trong lĩnh vực kinh tế, chính phủ Hàn đã chọn con đường phù hợp là hướng ra xuất khẩu, tập trung vào những mũi nhọn công nghệ cao. Chính vì vậy vị trí đứng thứ 12 trong số các quốc gia phát triển là một chỗ đứng xứng đáng với những gì kinh tế nước này đạt được. Những công ty đẳng cấp thế giới như L-G, Samsung, Posco, Huyndai…,những khu buôn bán sầm uất như Itaewon, Namdaemun, Dongdaemun…những lần đăng cai tổ chức Hội nghị kinh tế Thế giới…đã giúp Hàn Quốc thể hiện một vai trò to lớn trên thị trường toàn cầu. Chính phủ cũng đã rất quan tâm đến đầu tư đối với chiến lược đưa nền văn hoá Hàn đến gần hơn với nhân dân các nước, điều đó đã mở đường cho ngành này tiến xa và đạt được nhiều thành tựu. Ta có thể thấy làn sóng điện ảnh đã ảnh hưởng trực tiếp tới kinh tế và dịch vụ ở Hàn Quốc. Hallyu đã kéo theo một lượng khách du lịch nước ngoài tăng đột biến. Theo trang “Hàn Quốc ngày nay” mục du lịch đưa tin ngày 20-11-2005 thì lượng khách du lịch vào Hàn Quốc năm 2005 đã đạt 5,82 triệu người, vượt mức kế hoạch là 5,59 triệu người. Thành công đó là nhờ làn sóng điện ảnh xứ Hàn. Người ta đến Hàn bởi sự hấp dẫn từ những phong cảnh đẹp vừa thơ mộng như đảo Cheju vừa hùng vĩ như núi Sobaeksan, bởi cung điện cổ kính Kyongbogung hay Changdokgung, bởi khu giải trí Lotte World…tất cả đều từ phim ảnh, đã lôi cuốn trí tò mò muốn khám phá vẻ đẹp xứ sở kimchi. Theo bài viết của tác giả Nguyễn Hương Trà trong quyển “Việt Nam-Hàn Quốc, mối quan hệ đối tác toàn diện trong thế kỷ 21” trang 88, khi điều tra về lý do của những chuyến du lịch Hàn Quốc, hơn 60% khách du lịch đến từ Đông Nam Á nói rằng chính Hallyu đã hấp dẫn họ, khi điều tra ở Trung Quốc là 72,7%, ở Hồng Kông là 72,1%, ở Đài Loan là 71,7%, ở Nhật Bản là 67,1%. Thấy được điều này, Bộ Văn hoá và Du lịch Hàn Quốc đã quyết định đưa ra chiến dịch quảng bá văn hoá bằng những tên tuổi của các ngôi sao điện ảnh và ca nhạc xứ Hàn với quy mô lớn và đầu tư sâu. Đi cùng với làn sóng du lịch thăm quan là du lịch thẩm mĩ viện. Rất nhiều tour du lịch theo hình thức chỉnh sửa sắc đẹp để được như diễn viên Hàn đã được mở ra tại nhiều nước như Nhật, Trung, Đông Nam á. Và cũng không thể không nhắc tới làn sóng thời trang Hàn quốc đang rầm rộ khắp nơi. Một cuộc điều tra trong giới trẻ tại 7 thành phố lớn của Trung Quốc thực hiện bởi Viện Mỹ thuật và thiết kế Samsung cho thấy thời trang Hàn Quốc được ưa chuộng thứ tư chỉ xếp sau thời trang Trung Quốc, Ý, Pháp (dẫn theo bài của tác giả Nguyễn Hương Trà). Ẩm thực cũng lên ngôi, nhất là từ sau bộ phim “Nàng Dae Chang Kum”. Gần đây làn sóng học tiếng Hàn dâng cao ở các nước trên thê giới đủ thấy sức nóng của Hallyu. Và ngành điện ảnh thực sự đã thổi bùng lên sức nóng của cơn sốt văn hoá Hàn trong những năm đầu thế kỷ 21 này.
Chương III: LÀN SÓNG HÀN QUỐC TRONG LĨNH VỰC ĐIỆN ẢNH
3. 1. Giới thiệu về nền điện ảnh Hàn Quốc
Chỉ ít năm trước đây, người ta chưa hình dung ra được điện ảnh Hàn Quốc như thế nào thì bây giờ một khuôn mặt chỉn chu của ngành nghệ thuật thứ 7 ở xứ sở kimchi đã hoàn toàn hiện ra một cách chân thực trước mắt. Nền điện ảnh Hàn Quốc không được xuôi chèo mát mái như điện ảnh Hoa Kỳ hay Tây Âu mà nó phải trải qua những bước thăng trầm mới có thể đạt được thành công như ngày hôm nay.
Nhìn chung, có thể nhìn sự phát triển của nền điện ảnh Hàn Quốc qua những giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1955 - 1969
Đây là thời kỳ vàng son của điện ảnh Hàn Quốc. Vào nửa sau những năm 50, số lượng phim được sản xuất đã tăng vọt từ 8 phim vào năm 1954 lên tới 108 phim vào năm 1959. Sự hồi sinh này gắn liền với tên tuổi của ba nhà đạo diễn tài ba Kim Ki – young, Yu Han – mok và Shin Sang – ok và những bộ phim “Chunhyang – jeon”, “The Housemaid” (Người hầu gái, 1960), “Obltan” (Viên đạn vu vơ, 1961), “The Housegues and My Mother” (Ngôi nhà trọ và mẹ của tôi, 1961). Năm 1962, nhà độc tài Park Chung – hee đã ban hành đạo luật bắt buộc các hãng phim phải sản xuất 106 phim ít nhất mỗi năm và phim phải có giá trị thương mại. Đạo luật này không những chế định đề tài làm phim, nhất định phải là vấn đề chính thống và có tính tuyên truyền, mà còn cả những gì có thể trình chiếu. Rất nhiều bộ phim khởi quay ở Châu Âu và Hollywood bị cấm đã tước đi ảnh hưởng của nó tới các nhà làm phim Hàn . “Tất cả đã bị kiểm soát và ngăn cấm” - đạo diễn Im Kwon-teak đã nói (dẫn theo báo “Điện ảnh ngày nay” số 69 năm 2000 trang 57) nhưng các bộ phim nghệ thuật có tính chân thực cao vẫn được sản xuất cho đến cuối thập kỷ.
- Giai đoạn những năm 70:
Chính sách kiểm duyệt phim ngặt nghèo của chính phủ khiến cho điện ảnh bị cản trở. Trong khi đó nền điện ảnh của các quốc gia châu Á láng giềng lại lên ngôi. Akira Kurosawa, Ang Lee, John Woo và Trương Nghệ Mưu đưa Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông và Trung Quốc lên bản đồ điện ảnh thế giới. Khoảng từ năm 1960 đến năm 1988, theo lời của Kim Hyae Joon, một nhà nghiên cứu thuộc Kofic, đó là 28 năm đánh gục nền điện ảnh Hàn Quốc (dẫn theo báo “Điện ảnh ngày nay” số 69 năm 2000 trang 51).
- Giai đoạn 1980 - 1992
Sự kiện nổi bật nhất trong thời kỳ này là vào năm 1988, công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc đã phải viết bản cáo phó cho mình khi chính phủ Hàn Quốc, dưới áp lực của Mỹ, đã phải xem xét việc loại bỏ đạo luật cho phép các rạp chiếu phim trong nước chiếu phim nội ít nhất 106 ngày trong năm. Những luật định này đồng nghĩa với việc phim Hàn Quốc sẽ vấp phải sự cạnh tranh của Hollywood. Người ta vẫn không quên hình ảnh các nhà làm phim nội địa xuống đường biểu tình còn các ngôi sao điện ảnh vận đồ đen, lau nước mắt và tổ chức tang lễ ngay bên ngoài đại sứ quán Mỹ.
Nhưng chỉ một năm sau đó, Hàn Quốc đã lội ngược dòng ngoạn mục, mang theo một sức sống mới. Vào giữa thập niên 90, các nhà làm phim trẻ thuộc thế hệ “386” (nghĩa là đang ở độ tuổi tam thập nhi lập, tốt nghiệp vào thập kỷ 80 và sinh ra trong những năm 60) đã xuất hiện. Các tác phẩm thành công đã theo đó được ra đời. Điện ảnh Hàn Quốc bước vào một kỷ nguyên mới. Năm 1997, bộ phim “The Contact” của đạo diễn Chang Yoon – hyun gây nên tiếng vang lớn. Đặc biệt bộ phim “Swiri” phát hành năm 1999 giống như một cú hích thúc đẩy, đột phá cho nền công nghiệp điện ảnh Hàn. Bộ phim được thể hiện theo phong cách Hollywood về một chuyện tình cảm động của đôi trai gái bị phân cách giữa hai miền Nam Bắc Triều Tiên. Phim đã phá vỡ kỷ lục với 5,8 triệu vé và 11 triệu $ doanh thu (theo báo “Điện ảnh ngày nay” số 69 năm 2000 trang 57). Và Kang Jea Kyu, đạo diễn của phim, đã trở thành tiêu biểu cho thế hệ “386”.
Số lượng vé bán ra ở Hàn Quốc của các phim nội đạt tỷ lệ rất cao (40% số vé được bán ra vào năm 1999). Doanh số do sản xuất phim đạt khoảng 4 triệu USD, tức là gấp 4 lần so với năm 1998. Phim Hàn Quốc trở thành một trong những chủ đề được nói tới nhiều nhất trong giới làm phim. Điều kỳ diệu của điện ảnh Hàn Quốc trong thời gian này đã đưa nền nghệ thuật thứ 7 hội nhập với thế giới. Gina Yu, một giáo sư nghiên cứu điện ảnh tại Đại học Dongguk ở Seoul đánh giá: “Ngày nay có quá nhiều năng lượng, sự sôi động lẫn mối quan tâm về công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc… đó thực sự là một đổi thay mới mẻ” (dẫn theo báo “Điện ảnh ngày nay” số 69 năm 2000 trang 51).
Có được một chỗ đứng thành công trên thị trường điện ảnh thế giới quả là không dễ dàng. Đặc biệt, làn sóng điện ảnh Hàn Quốc được hâm nóng từ những năm đầu thế kỷ 21
+ Những năm đầu thế kỷ 21.
Cuộc cách mạng của điện ảnh Hàn Quốc thực sự bắt đầu vào thiên niên kỷ mới. Năm 2001, “Friend” (Bạn bè) tạo nên một cơn sốt khắp Hàn Quốc và thu đến 8,1 triệu lượt người xem, bỏ xa bộ phim Harry Portter do Mỹ sản xuất đứng ở vị trí thứ 5 với doanh thu 4,4 triệu lượt người xem (dẫn theo báo “Điện ảnh ngày nay” số 69 năm 2000 trang 56). Năm đó, cũng có đến 6 bộ phim của Hàn lọt vào top 10 phim ăn khách nhất và đều đứng ở vị trí hàng đầu như “My Sassy Girl” (Cô nàng ngổ ngáo), “My Wife is Gangster” (Vợ tôi là găng tơ), “Musa” (Chiến binh)… Năm 2001 cũng là năm lập kỷ lục của điện ảnh Hàn Quốc khi có đến 65 bộ phim nhựa được sản xuất và công chiếu. Lee Chang – dong đoạt giải đạo diễn tại LHP Venise và giải năm nữ diễn viên mới xuất sắc Soi Kyung – gu, Moon So – ri với bộ phim “Oasis” (Ốc đảo).
Năm 2002, phim “Marrying the Mafia” ăn khách nhất với hơn 5 triệu lượt khán giả thuộc thể loại hình sự hài. “The Way Home” (Đường về) một phiên bản American Pie kiểu Hàn – hài giới tính học đường, “2009 – Lost Memories” là phim lịch sử giả tưởng đã gặt hái được nhiều thành công lớn. Cũng trong năm này, đạo diễn kỳ cựu nhất Hàn Quốc Im Kwon – taek được trao giải đạo diễn xuất sắc nhất tại LHP Cannes với “Painted Fire”.
Năm 2003 tiếp tục làm nên kỷ lục mới khi phim có doanh thu cao nhất tại Hàn là “Simido” thu đến 10,4 triệu lượt người xem, cao hơn phim về nhì vừa đoạt giải Oscar “Chúa nhẫn 3” chỉ thu hơn 5 triệu lượt. Các phim có doanh thu cao khác là phim hình sự “Memories of Murder” (Hồi ức của một kẻ giết người), lãng mạn học đường “My Tutor Friend” (Cô bạn gia sư), tâm lý “Untold Scandal” (Những vụ bê bối dấu kín), kinh dị rùng rợn “Atal of two Sister” (Chuyện về hai chị em).
Năm 2004, điện ảnh Hàn Quốc đặc biệt thành công với “Taegukgi”, bộ phim chiến tranh được dàn dựng quy mô và tốn kém nhất từ trước đến nay, được dàn dựng bởi đạo diễn Kang Je – gyu (tác giả của Swin) với hai ngôi sao sáng giá Jang Dong – gun và Won Bin thu hơn 9 triệu lượt khán giả chỉ sau hơn 1 tháng trình chiếu. Kỷ lục này có ý nghĩa rất đặc biệt, nó chứng minh rằng hầu hết người Hàn Quốc trưởng thành đều yêu thích phim nội. Bộ phim ăn khách đó cũng tác động đến lượng khán giả của các tác phẩm khác, trong đó “Cô dâu bé nhỏ”: 3,1 triệu lượt người xem, “Anh trai tôi”: 2,4 triệu lượt người, “Ngọn gió yêu thương”: 2,3 triệu lượt người, “Chiến đấu trong gió”: 2,3 triệu lượt người(theo trang web www.bugs.co.kr).
Tất cả những dẫn chứng trên đã chứng tỏ về một trào lưu điện ảnh Hàn Quốc đang thu được những kết quả khả quan không chỉ trong thị trường nội địa mà còn vươn ra các nước khác trên thế giới. Từ những con số về doanh thu đến những giải thưởng trong nước và mang tầm thế giới, làn sóng điện ảnh Hàn đang lập nên 1 “kỳ tích sông Hàn” trong ngành “nghệ thuật thị giác”. Vậy tại sao chúng ta không tìm hiểu xem làn sóng điện ảnh xứ sở nhân sâm ở các nước trên thế giới như thế nào
3. 2. Làn sóng điện ảnh Hàn Quốc ở khu vực châu Á.
“Bạn có biết giới làm phim quốc tế đang nói gì không? Họ cho rằng đây là thời đại của Hàn Quốc”, Jason Chan giám đốc Morovision, công ty đầu tiên đưa phim Hàn Quốc ra thị trường quốc tế khẳng định: “Sau Nhật Bản, Hồng Kông và Trung Quốc, cuối cùng thì điểm nóng cũng đã chuyển sang Hàn Quốc”(dẫn theo báo “Điện ảnh ngày nay” số 69 năm 2000 trang 51).
Khi những bộ phim truyền hình Hàn Quốc đầu tiên được công chiếu tại Trung Quốc và Hồng Kông vào cuối thập niên 90, các diễn viên điện ảnh Hàn đã xây những viên gạch đầu tiên khởi nghiệp ở các nước châu Á láng giềng. Với “Cảm xúc”, “Hoa cúc vàng”, “Tình anh trao em”… phim Hàn đã để lại một dấu ấn trong lòng người xem về hình tượng thanh niên Hàn Quốc sống hết mình trong tuổi trẻ, yêu mãnh liệt và thuỷ chung, đầy nghị lực và quyết tâm trong sự nghiệp. Nhưng khi đó người ta mới chỉ tiếp nhận điện ảnh Hàn Quốc như một dấu chấm nhỏ giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Từ khoảng giữa năm 1997, các bộ phim “Anh em nhà bác sĩ”, “Người mẫu”, “Ước mơ vươn tới một ngôi sao”, “Mối tình đầu”, “Thành thật với tình yêu”… và đến năm 2000 là “Trái tim mùa thu” đã tạo một bước chuyển, khán giả châu Á quan tâm nhiều hơn tới phong cách phim Hàn. Làn sóng Hàn Quốc ngày càng gia tăng với hàng chục phim được trình chiếu trên màn ảnh châu Á như “Bản tình ca mùa đông”, “Cô nàng ngổ ngáo”, “Nấc thang lên thiên đường”, “Ngôi nhà hạnh phúc”, “Nàng Dae Jang Geum” v.v… Những tên tuổi làm rạng danh điện ảnh Hàn Quốc được khắc sâu trong lòng người hâm mộ như: Bae Yong Jun, Won Bin, Jang Dong Gun, Lee Byung Hun, Choi Ji Woo, Song Hye Kyo v.v… Khó có thể kể hết ra đây những gương mặt của ngành nghệ thuật thứ 7 trong làn sóng Hàn Quốc. Bởi không chỉ dừng lại ở một vài tên tuổi nổi danh, các lớp diễn viên trẻ càng ngày càng trau dồi tài năng và vươn lên làm cho ngành phim ảnh của đất nước này rất đa dạng mà không gây nhàm chán cho người xem.
Để chứng minh cho sức mạnh của làn sóng điện ảnh Hàn Quốc ở châu Á, ta có thể lấy ra hai ví dụ điển hình tại Trung Quốc và Nhật Bản – hai thị trường vốn rất khó tính đối với điện ảnh nước ngoài.
+ Ở Nhật Bản
Nhật Bản đứng đầu trong 5 cường quốc nhập khẩu phim Hàn. Năm 2002 Hàn Quốc thu được $6 580 000 từ việc xuất khẩu phim sang Nhật thì đến năm 2004 con số này lên tới $13 890 000 tăng 11%.(Đứng sau Nhật là Mỹ, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc (theo báo “Điện ảnh ngày nay” số 197 năm 2004 trang 56).
Truyền hình Hàn Quốc được hâm mộ bắt đầu với “Bản tình ca mùa đông”. Từ những thước phim xúc động về tình yêu theo kiểu Hàn, người dân xứ phù tang luôn miệng nhắc đến Bae Yong Jun và đặt cho anh một cái tên trìu mến “Yonsama”. Yon là để ám chỉ tên của anh, Yong Jun, và “sama” có nghĩa là”người rất được kính trọng”. “Sama” là một từ hiếm khi được người dân Nhật sử dụng. Thậm chí báo chí Nhật còn không ngoa khi nói rằng: trong vòng một thế kỷ nay, tại Nhật Bản mới có một nhân vật “hoạt động văn hóa” có sức ảnh hưởng rộng như Bae. Trong những cuộc điều tra dư luận Nhật Bản: “Trong làn sóng của