Trong những năm gần đây, giáo dục nghệ thuật trong nhà trường phổ thông đã trở thành một môn học không thể thiếu trong sự nghiệp giáo dục con người mới Việt Nam phát triển toàn diện. Cùng với các môn học khác, môn học Âm nhạc trong chương trình THCS nhằm mục đích giáo dục thẩm mỹ, nâng cao đời sống tinh thần cho lớp trẻ nên đã thu hút được sự chú ý của nhà trường, của học sinh. Sau 5 năm thay sách giáo khoa, chương trình Âm nhạc ở THCS đã được triển khai đồng bộ từ lớp 6 đến hết học kỳ I lớp 9 đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của nhà trường phổ thông và của xã hội. Mặc dù cũng còn có một vài ý kiến trái ngược nhau, nhưng nhìn chung, nội dung của chương trình SGK. Âm nhạc THCS đã thể hiện được những tiêu chí giáo dục thẩm mỹ hết sức cụ thể, có tính khoa học và liên ngành cao. Có lẽ, chưa có thời điểm nào mà các trường phổ thông lại hăng hái đăng ký tham gia giờ dạy tốt, giáo viên dạy giỏi môn Âm nhạc như giai đoạn hiện nay. Điều đó chứng tỏ sự định hướng đúng đắn của Đảng và nhà nước, sự quan tâm của Bộ giáo dục đào tạo cũng như các sở, ngành địa phương đối với môn học này. Do vậy đã khơi dậy được niềm tự tin, lòng yêu nghề, sự nhiệt tình phấn đấu của những giáo viên giảng dạy âm nhạc.
Môn Âm nhạc trong trường THCS không nhằm đào tạo những người làm nghề Âm nhạc, những diễn viên, những nhạc sĩ, ca sĩ .mà chính là qua môn học để tác động vào đời sống tinh thần của các em góp phần cùng với môn học khác thực hiên muc tiêu giáo dục của nhà trường phổ thong cũng như mục tiêu của bậc học.
Giáo dục phổ thông nhằm giáo dục học sinh phát triển toàn diện, không những nâng cao hiểu biết về kiến thức văn hóa mà còn phát huy năng lực cảm thụ Âm Nhạc, làm cho đời sống tinh thần them phong phú, lành mạnh tạo điều kiện để các em bộc lộ và phát triển năng khiếu, góp phần phát triển toàn diện và hài hòa tính cách của các em.
Đặc biệt là giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường phổ thong là một trong bốn mặt giáo dục quan trọng nhất: Đức – Trí – Thể - Mĩ. Cái đẹp trong nghệ thuật âm nhạc xuất phát từ tác phẩm, từ nghệ thuật trình diễn tạo nên những hình tượng âm nhạc có tác dụng truyền cảm mạnh mẽ làm rung động long người, hướng con người đến Chân – Thiện – Mĩ
55 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 8682 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lợi ích của việc học nhạc ở trường trung học cơ sở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
KHOA NGHỆ THUẬT
b¯¯¯
TỪ VĂN ĐƯỢC
LỢI ÍCH CỦA VIỆC HỌC NHẠC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
Ngành đào tạo: Sư Phạm Âm Nhạc
Trình độ đào tạo: Cao Đẳng
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Giảng viên hướng dẫn:
LÊ THỊ KIM CHI
ĐỒNG THÁP, NĂM 2012
MỤC LỤC
Lời tri ân
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Giới hạn đề tài
Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Giả thuyết
Nhiệm vụ nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Đặc điểm phát triển sinh lí và sinh lí học sinh ở trường THCS
Lợi ích của việc học âm nhạc trong trường THCS
Giáo dục thẩm mỹ
Giáo dục phẩm chất đạo đức
Góp phần phát triển trí tuệ
Góp phần phát triển thể chất
CHƯƠNG II: Thực trạng của việc giáo dục âm nhạc trong trường THCS
Thực trạng giảng dạy âm nhạc trong trường THCS
Phiếu trưng cầu ý kiến giáo viên
Phiếu trưng cầu ý kiến học sinh
Kết quả điều tra
Kết quả trưng cầu ý kiến giáo viên
Kết quả trưng cầu ý kiến học sinh
Thực trạng giảng dạy của giáo viên
Thực trạng học tập của học sinh
CHƯƠNG III: Kết luận và đề xuất
Kết luận
Đề xuất
Đối với nhà trường
Đối với giáo viên
Đối với học sinh
Tài liệu tham khảo
LỜI TRI ÂN
Trong mọi thời đại, giáo dục đều hướng tới sự phát triển toàn diện nhân cách con người, bao gồm “đức, trí, thể, mỹ”. Ngày nay, yêu cầu về giáo dục toàn diện nhân cách con người vẫn luôn được đặt ra, đặc biệt đối với việc giáo dục nghệ thuật được xem như phương tiện hữu hiệu góp phần xây dựng nhân cách con người.
Ở nước ta, cùng với Mỹ thuật, Âm nhạc là môn học nghệ thuật đã được đưa vào trường phổ thông từ những năm 90 của thế kỷ trước, tuy nhiên mới chỉ tập trung ở một số trung tâm lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,…. Gần 10 năm trở lại đây, môn Âm nhạc đã được phổ cập trong toàn quốc, đã có vị trí như các môn học khác của chương trình giáo dục bậc Tiểu học và Trung học cơ sở.
Trong thời kỳ hiện nay, nhân loại đang đi vào nền văn minh trí tuệ với sự phát triển như vũ bão của Khoa học công nghệ, xu thế của thời đại được thể hiện rõ nét của một xã hội có nền kinh tế tri thức, một xã hội học tập. Những thành tựu tiến bộ của khoa học công nghệ đã làm thay đổi đáng kể hình thức và nội dung mọi mặt của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục,… trên phạm vi toàn thế giới.
Cùng với sự phát triển tiến bộ của nhân loại về mọi mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì ngành giáo dục Việt Nam nói chung và đặc biệt là bộ môn Âm nhạc nói riêng cũng cần phải tìm cho mình một hướng đi mới phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Nắm bắt được tình hình trên, tôi đã đi sâu tìm tòi, nghiên cứu về đề tài “LỢI ÍCH CỦA VIỆC HỌC ÂM NHẠC TRONG TRƯỜNG THCS”, bởi một khi chúng ta hiểu được hết những ích lợi mà âm nhạc mang lại cho các em học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì lúc đó ta mới có định hướng cụ thể, rõ ràng rồi từ đó tìm ra biện pháp, hướng đi mới phù hợp, đúng đắn cho ngành âm nhạc nước nhà ngày càng phát triển phổ biến bắt kịp với xu thế phát triển chung của nhân loại.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi xin chân thành cảm ơn và tận đáy lòng xin gửi những lời tri ân tốt đẹp nhất đến cô LÊ THỊ KIM CHI- Giảng viên khoa Nghệ thuật, phụ trách bộ môn Âm nhạc của Trường Đại Học Đồng Tháp đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình để tôi có thể hoàn thành đề tài này. Trong khuôn khổ thời gian có hạn, tôi đã cố gắng hết khả năng để nghiên cứu và thực hiện đề tài nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi sự thiếu sót, em rất mong nhận được những lời góp ý chân thành từ cô để đề tài của em được hoàn thành hơn.
Em xin chân thành cảm ơn và chúc cô luôn dồi dào sức khỏe!
PHẦN I: MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong những năm gần đây, giáo dục nghệ thuật trong nhà trường phổ thông đã trở thành một môn học không thể thiếu trong sự nghiệp giáo dục con người mới Việt Nam phát triển toàn diện. Cùng với các môn học khác, môn học Âm nhạc trong chương trình THCS nhằm mục đích giáo dục thẩm mỹ, nâng cao đời sống tinh thần cho lớp trẻ nên đã thu hút được sự chú ý của nhà trường, của học sinh. Sau 5 năm thay sách giáo khoa, chương trình Âm nhạc ở THCS đã được triển khai đồng bộ từ lớp 6 đến hết học kỳ I lớp 9 đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của nhà trường phổ thông và của xã hội. Mặc dù cũng còn có một vài ý kiến trái ngược nhau, nhưng nhìn chung, nội dung của chương trình SGK. Âm nhạc THCS đã thể hiện được những tiêu chí giáo dục thẩm mỹ hết sức cụ thể, có tính khoa học và liên ngành cao. Có lẽ, chưa có thời điểm nào mà các trường phổ thông lại hăng hái đăng ký tham gia giờ dạy tốt, giáo viên dạy giỏi môn Âm nhạc như giai đoạn hiện nay. Điều đó chứng tỏ sự định hướng đúng đắn của Đảng và nhà nước, sự quan tâm của Bộ giáo dục đào tạo cũng như các sở, ngành địa phương đối với môn học này. Do vậy đã khơi dậy được niềm tự tin, lòng yêu nghề, sự nhiệt tình phấn đấu của những giáo viên giảng dạy âm nhạc.
Môn Âm nhạc trong trường THCS không nhằm đào tạo những người làm nghề Âm nhạc, những diễn viên, những nhạc sĩ, ca sĩ….mà chính là qua môn học để tác động vào đời sống tinh thần của các em góp phần cùng với môn học khác thực hiên muc tiêu giáo dục của nhà trường phổ thong cũng như mục tiêu của bậc học.
Giáo dục phổ thông nhằm giáo dục học sinh phát triển toàn diện, không những nâng cao hiểu biết về kiến thức văn hóa mà còn phát huy năng lực cảm thụ Âm Nhạc, làm cho đời sống tinh thần them phong phú, lành mạnh tạo điều kiện để các em bộc lộ và phát triển năng khiếu, góp phần phát triển toàn diện và hài hòa tính cách của các em.
Đặc biệt là giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường phổ thong là một trong bốn mặt giáo dục quan trọng nhất: Đức – Trí – Thể - Mĩ. Cái đẹp trong nghệ thuật âm nhạc xuất phát từ tác phẩm, từ nghệ thuật trình diễn tạo nên những hình tượng âm nhạc có tác dụng truyền cảm mạnh mẽ làm rung động long người, hướng con người đến Chân – Thiện – Mĩ…
Xuất phát từ đặc trưng bộ môn thuộc phạm trù nghệ thuật đòi hỏi sự hứng thú cao.
Xuất phát từ yêu cầu của việc đổi mới phương pháp là phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Có như vậy các em mới có điều kiện khắc phục khó khăn tiếp nhận kiến thức mới.
Xuất phát từ tâm lý lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi nhạy cảm hiếu động ham thích ca hát. Nếu giáo viên gây được hứng thú trong bà dạy sẽ tạo cho học sinh sự phấn chấn, hào hứng để tiêp thu bài học một cách có hiệu quả.
Từ thực tiễn giảng dạy cũng như thực tiễn của học sinh nông thôn ít có điều kiện để tiếp nhận tri thức về âm nhạc, nếu giáo viên tạo được hứng thú trong giảng dạy và học tập sẽ giúp cho học sinh say mê học tập.
Từ những lý do nói trên, bản thân tôi nhận thấy lợi ích của việc học nhạc ở trường THCS là một trong những giải pháp hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng trong việc dạy và học. Vì vậy nó là động lực giúp tôi đi sâu nghiên cứu đúc rút kinh nghiệm này.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Giúp học sinh bước đầu hiểu rõ thêm về việc học âm nhạc mang lại những lợi ích như thế nào cho học sinh.
Định hướng học sinh hiểu rằng song song với việc học các môn học khác thì môn âm nhạc cũng có tác động tích cực vào đời sống tinh thần của các em.
Thông qua việc hiểu rõ hơn về lợi ích của việc dạy âm nhạc trong trường THCS, từ đó xây dựng các phương pháp để việc dạy âm nhạc càng có hiểu quả.
GIỚI HẠN ĐỀ TÀI:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu đến những lợi ích mang lại khi giảng dạy âm nhạc trong trường THCS đối với học sinh lứa tuổi từ 11 – 14 tuổi.
ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:
Đối tượng: Lợi ích của việc học Âm nhạc trong trường THCS.
Khách thể: Quá trình giảng dạy Âm nhạc ở trường THCS.
GIẢ THUYẾT:
Nếu thực hiện thành công đề tài này thì sẽ thu được những kết quả đáng kể sau:
Mọi người sẽ có cách nhìn khác về môn âm nhạc, từ đó việc giảng dạy được thực hiện nghiêm túc, khoa học đạt kết quả tốt nhất.
Học sinh ngày càng hiểu rõ hơn về lợi ích về việc học âm nhạc mang lại từ đó các em sẽ có hứng thú và tinh thần học hơn trong các tiết học âm nhạc.
Phát triển nhân cách học sinh, góp phần giáo dục thế hệ trẻ có cách nhìn khác về việc học âm nhạc.
Giúp giáo viên hiểu rõ hơn nữa bản chất về môn mà mình đang dạy, từ đó họ càng có tinh thần giảng dạy và càng yêu nghề.
NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu trên, tôi tiến hành giải quyết các nhiệm vụ trọng tâm sau:
Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc dạy âm nhạc trong trường THCS để từ đó thấy được những lợi ích mà âm nhạc mang lại.
Khảo sát, phân tích, đánh giá lợi ích khi giảng dạy âm nhạc trong trường THCS.
Đưa ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả, lợi ích từ việc học âm nhạc trong trường THCS.
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Đọc và tìm hiểu các tài liệu nghiên cứu về việc giảng dạy âm nhạc trong trường THCS.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Điều tra, khảo sát lấy ý kiến của giáo viên và học sinh.
Phân tích, đánh giá những nội dung thu thập được.
Thống kê, tổng kết kết quả và đưa ra hướng xử lý, giải quyết.
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN SINH LÝ VÀ TÂM LÝ HỌC SINH Ở TRƯỜNG THCS.
Đặc điểm phát triển sinh lý:
1.1 Sự phát triển cơ thể của thiếu niên diễn ra mạnh mẽ nhưng không cân đối.
Sự hoạt động tổng hợp của các tuyến nội tiết quan trọng nhất (tuyến yên, tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận) tạo ra nhiều thay đổi trong cơ thể trẻ, trong đó sự nhảy vọt về chiều cao và sự phát dục.
Chiều cao của các em tăng lên một cách đột ngột, hằng năm có thể tăng từ 5 - 6 cm. Trọng lượng cơ thể hằng năm tăng từ 2,4 - 6 kg, tăng vòng ngực là những yếu tố đặc biệt trong sự phát triển thể chất của trẻ.
Ở giai đoạn dưới 14 tuổi vẫn còn có các đốt sụn hoàn toàn giữa các đốt xương sống, nên cột sống dễ bị cong vẹo khi đứng ngồi không đúng tư thế. Sự tăng khối lượng các bắp thịt và lực của cơ bắp diễn ra mạnh nhất vào cuối thời kì dậy thì khiến các em khỏe ra rõ rệt. Tuy nhiên, sự phát triển cơ của các em trai khác biệt nhất định báo hiệu sự hình thành ở các em những nét khác biệt về cơ thể : con trai cao lên, vai rộng ra, con gái tròn trặn dần, xương chậu rộng ra. Sự phát triển cơ thể diễn ra không cân đối làm cho các em lúng túng, vụng về, “lóng ngóng”. Xương chân và tay chóng dài nhưng cơ phát triển chậm hơn và lồng ngực phát triển chậm, nên đầu tuổi thiếu niên thường có thân hình dài, hơi gầy và ít nhiều không cân đối.
Sự phát triển của hệ tim - mạch cũng không cân đối: thể tích tim tăng nhanh, hoạt động mạnh hơn nhưng đường kính phát triển chậm hơn. Điều này gây nên những rối loạn tạm thời của hệ tuần hoàn máu.
1.2 Hoạt động thần kinh cấp cao của tuổi thiếu niên cũng có những nét riêng biệt.
Ở tuổi thiếu niên, quá trình hưng phấn chiếm ưu thế rõ rệt, dẫn đến thiếu niên không làm chủ được cảm xúc của mình, không kiềm chế được xúc động mạnh. Các em dễ bị kích động, dễ bực tức, cáu gắt, mất bình tĩnh,…. Ở tuổi thiếu niên, phản xạ có điều kiện đối với những tính hiệu trực tiếp được hình thành nhanh hơn những phản xạ có điều kiện đối với những tính hiệu từ ngữ. Do vậy, ngôn ngữ của trẻ cũng thay đổi. Các em nói chậm hơn, hay “nhát gừng”, “cộc lốc”… Nhưng hiện tượng này chỉ tạm thời, khoảng 15 tuổi trở lên hiện tượng này cân đối hơn.
1.3 Hiện tượng dậy thì.
Sự trưởng thành về mặt sinh dục là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển cơ thể của thể thiếu niên. Tuyến sinh dục bắt đầu hoạt động và cơ thể các em xuất hiện những dấu hiệu phụ khiến chúng ta nhận ra các em đang ở độ tuổi dậy thì.
Biểu hiện bên ngoài chủ yếu của sự chín muồi của các cơ quan sinh dục ở các em trai là sự xuất tinh, ở các em gái là hiện tượng thấy kinh. Tuổi dậy thì của các em nữ thường vào khoảng 12 - 14 tuổi, các em nam bắt đầu và kết thúc chậm hơn các em gái khoảng 1,5 - 2 năm.
Sự phát dục cùng với những chuyển biến trong sự phát triển cơ thể của thiếu niên có một ý nghĩa không nhỏ trong sự nảy sinh những cấu tạo tâm lý mới: Cảm giác về tính người lớn thực sự của mình; cảm giác về tình cảm giới tính mới lạ, quan tâm tới người khác giới.
Đặc điểm phát triển tâm lý:
Đối với tuổi thiếu niên, có một số các rối loạn tâm lý mang tính chất đặc trưng. Nếu như có rối loạn phát triển tâm lý từ trước, thì đến tuổi thiếu niên, chúng cũng sẽ có những biến đổi nhất định.Tuổi thiếu niên ở trong khoảng từ 11- 14 tuổi (2 năm). Đây là thời gian xảy ra rất nhiều các biến đổi ở các mức độ khác nhau trong cơ thể trẻ, sự hình thành nhân cách được hoàn thiện. Ở góc độ nội tiết, sự họat hóa của tuyến yên, của các tuyến sinh dục, của tuyến thượng thận được tăng cường, dẫn đến sự tăng trưởng mạnh về chiều cao, trọng lượng cơ thể, các dấu hiệu sinh dục phụ xuất hiện. Tuy nhiên, người lớn (cha mẹ, thầy, cô giáo, người nuôi dưỡng trẻ) phải ý thức rằng, những phát triển trong cơ thể trẻ lúc này diễn ra chưa đồng bộ và với diện mạo “to cao” bên ngoài như vậy, các em vẫn chưa là người lớn thực thụ về tất cả các chức năng trong cơ thể. Về trí tuệ, ở giai đoạn lứa tuổi này, tiếp tục diễn ra sự phát triển của trí nhớ, đặc biệt trí nhớ ý nghĩa, chú ý có chủ định, và vận động, tư duy lôgic và trừu tượng cũng phát triển mạnh. Trẻ- thiếu niên hoàn toàn có khả năng tiếp thu các khái niệm Toán học, Vật lý học và Triết học trừu tượng.
Mặt khác, sự thay đổi trong lĩnh vực động cơ của nhân cách cũng diễn ra cùng với động cơ học tập, nhu cầu trong giao tiếp bạn bè, việc lĩnh hội các chuẩn mực và giá trị môi trường của thiếu niên cũng bắt đầu diễn ra. Trong quan hệ với cha mẹ, xuất hiện các dấu hiệu từ phản ứng, muốn thoát khỏi sự áp đặt quan điểm của người lớn về các vấn đề khác nhau đến việc bỏ trốn khỏi nhà. Liên quan tới việc hình thành tính tích cực nhân cách trong giai đoạn này là việc đẩy nhanh tính chất mạnh mẽ trong hình thành các đặc điểm nhân cách ở trẻ. Chính sự đẩy nhanh tốc độ cả về cơ thể lẫn nhân cách là bước chuyển từ trạng thái trẻ em sang người lớn. Sự phụ thuộc vào cha mẹ và người lớn dần phải được thay thế định hướng cho trẻ hướng tới tương lai của chính bản thân nó. Sự chuyển dịch này đưa ra yêu cầu khá cao không chỉ đối với hệ thần kinh trung ương, mà cả hệ thống giá trị, chuẩn mực, niềm tin vốn đã được hình thành trước đó ở trẻ.
Với những trẻ thiểu năng trí tuệ mức nhẹ, vào tuổi thiếu niên, việc định hướng cuộc sống, các kỹ năng tự phục vụ và lao động được cải thiện. Tuy nhiên, một số chức năng vào lúc này cũng không thể được bù trừ, chẳng hạn như thoát khỏi ức chế tình dục, xâm kích hay thích tham gia vào các nhóm thiếu niên lịch lãm với tư cách là thành viên. Với trẻ phát triển theo kiểu nhi tính, chậm phát triển tâm lý có thể được bù trừ, nhưng nhân cách, cũng như động cơ vẫn không thoát khỏi nhi tính.Còn với trẻ thiếu niên, nhi tính do căn nguyên tâm sinh lý thì chậm phát triển tốc độ chín muồi sinh dục vẫn diễn ra. Ở các thiếu niên có tổn thương thực thể hệ thần kinh trung ương các rối loạn trí tuệ có thể được phục hồi tương đối, nhưng hiện tượng mệt mỏi và rối loạn hành vi lại tăng cường. Nếu trẻ bị động kinh từ nhỏ, và không được điều trị kịp thời, thì vào tuổi thiếu niên, các khiếm khuyết trí tuệ, sự thay đổi nhân cách, biểu hiện sự dữ tợn, càng tăng hơn.
Những nét tính cách tăng đậm (NTCTĐ): là hiện tượng thường gặp ở trẻ THCS; đây là các phương án cực hạn của chuẩn bình thường và khi đó các nét của tính cách được tăng cường có phần tăng đậm thái quá.
Rơi vào hiện trạng này, ở trẻ thiếu niên xuất hiện tính nhậy cảm tăng cường với một số các tác động gây chấn thương tâm lý xác định, trong khi lại ổn định với các tác động khác. Tính cách phát triển mạnh theo nhiều kiểu khác nhau, mỗi kiểu trong đó đều để lại dấu vết về điểm yếu của mình và đó cũng là dấu hiệu để phân biệt các dạng phát triển tính cách tăng đậm.
Sự phát triển tính cách tăng đậm thường bộc phát ở tuổi thiếu niên, vào giai đoạn hình thành tính cách và theo bám tương đối chặt chẽ với các giai đoạn phát triển tiếp theo của trẻ. Tính cách phát triển tăng đậm không phải là bệnh lý, mà là các phương án phát triển bình thường nhưng rất dễ dẫn đến các hành vi lệch chuẩn và lâu dài, nếu không được chỉnh trị hoặc uốn nắn sẽ dẫn đến các bệnh thái nhân cách (và lúc đó đòi hỏi phải có sự tham gia, can thiệp của các nhà tâm thần học).
LỢI ÍCH CỦA VIỆC HỌC NHẠC TRONG TRƯỜNG THCS.
Giáo dục thẩm mỹ:
Âm nhạc có chức năng thẩm mỹ, học nhạc không chỉ giúp các em giảm stress mà qua đó các em có cái nhìn tươi đẹp hơn về cuộc sống, thông qua các ca từ, làn điệu âm nhạc để dạy các em biết rằng cuộc sống xung quanh mình còn có biết bao điều mới mẻ, dạy các em về tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con người, yêu đồng loại hay thậm chí là yêu tất cả những gì bình dị nhất xung quanh mình như: yêu con đường mà mình vẫn ngày ngày cắp sách đến trường, yêu từng cuốn sách, quyển vở thân quen, yêu lắm cái bàn, cái ghế,cái bảng đen mà mình vẫn thường thấy mỗi khi đến lớp,.... Từ đó giúp hình thành trong tâm trí các em những nhân cách, phẩm chất tốt đẹp để dần dần hướng đến vẻ đẹp hoàn thiện của chân- thiện- mỹ với những giá trị truyền thống của dân tộc, hình thành nhân cách chủ động, linh hoạt, trân trọng cái tốt, cái đẹp trong cuộc sống hàng ngày.
Định hướng học sinh cảm thụ cái đẹp, qua đó xây dựng lối sống hướng thiện. nâng cao hơn năng lực cảm thụ xã hội, hình thành cách sống cân bằng, hài hòa, thúc đẩy niềm say mê, lao động sáng tạo, là công cụ hiệu quả nâng cao đời sống tinh thần ngày càng phong phú.
Âm nhạc vang lên, đem lại giá trị ý nghĩa trong mối liên hệ giữa lời ca và mối quan hệ xã hội, hình ảnh trong âm nhạc luôn hiện lên vẻ đẹp hướng đến chân- thiện- mỹ đầy xúc cảm. Đó chính là giá trị mà âm nhạc có được, giống như ống kính vạn hoa kích thích khả năng tưởng tượng đầy ước mơ và hoài bão.
Ví dụ 1: Bài hát “Khúc hát chim sơn ca”, Nhạc và lời: Đỗ Hoài An là bài hát trữ tình viết cho lứa tuổi thiếu nhi, nhằm giáo dục cho các em tình yêu quê hương, yêu đất nước.
Ví dụ 2: Bài hát “Tiếng ve gọi hè”, Nhạc và lời: Trịnh Công Sơn. Âm nhạc lớp 7 nói lên sự gắn bó của tuổi trẻ với thiên nhiên trong không khí náo nức của mùa hè. Qua bài hát, nhằm giáo dục cho các em tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên trước vẻ đẹp của cuộc sống.
Ví dụ 3: Bài hát “Khát vọng mùa xuân”, âm nhạc lớp 8
Mùa xuân là một trong những mùa đẹp nhất mà mọi người luôn mong đợi. Bài hát “ Khát vọng mùa xuân” của nhạc sĩ Mô – Da là bài hát trữ tình cổ điển mẫu mực. Nét giai điệu trong sáng, lời ca diễn tả những hình ảnh tươi đẹp của thiên nhiên, gởi lên những cảm xúc yêu đời của tuổi thơ.
→ Qua các ví dụ về các bài hát trong chương trình THCS đã giúp ta thấy được các bài hát không chỉ có giai điệu hay mà nội dung bài hát càng đẹp thêm, vì qua mỗi bài hát đều nhằm giáo dục các em hướng tới những cái hay, cái đẹp tong cuộc sống. Như vậy các bài hát được đưa vào trong chương trình THCS đều mang tính giáo dục rất cao.
Giáo dục phẩm chất đạo đức:
Âm nhạc đóng góp quan trọng vào quá trình hình thành nhân cách, trí tuệ con người Việt Nam. Thông qua âm nhạc, các em cảm thụ rõ ràng quê hương đất nước, hình ảnh bờ tre, ruộng lúa, biển rộng, sông núi,… hiện hữu với vẻ đẹp gần gũi, thân thuộc. Không chỉ vậy, mối quan hệ gia đình đầy ý nghĩa và bền chặt khi hát lên những bài hát về tình yêu thương bố mẹ, ông bà, anh chị em. Sự gắn bó huyết thống, ruột thịt có ảnh hưởng lớn đến các em, tạo nên sự ổn định, vững vàng tâm lý từ lúc còn thơ đến tuổi trưởng thành, làm nền tảng cho mối quan hệ, ứng xử xã hội mai sau.
Âm nhạc đóng góp tích cực đào tạo con người toàn diện trong bối cảnh Việt Nam cần nguồn nhân lực vừa có tài vừa có đạo đức nghề nghiệp, do đó nghệ thuật là cơ sở tạo nhân cách biểu lộ qua ứng xử trong sinh hoạt. Sự hiểu biết đa dạng kích thích mạnh mẽ ý thức nên làm điều tốt đẹp cho mọi người, tránh điều xấu xa có hại đến bản thân, xã hội. Khi tham gia trực tiếp vào hoạt động âm nhạc, các em sẽ tự điều chỉnh hành vi, tìm đến lẽ phải, chân lý, rút ra những bài học về lối sống có văn hóa, từ đó phẩm chất cá nhân: tính cách, năng lực được bộc lộ và sớm hình thành. Có thể thấy, âm nhạc học đường không chỉ trong giờ học mà còn diễn ra mọi lúc mọi nơi, như hoạt động vui chơi theo nhóm, trong tập thể với bạn bè cùng lứa, qua đó