Đề tài Lý luận chung về người thừa kế và người không được hưởng di sản

Thừa kế với vai trò là một phạm trù kinh tế xã hôị đã xuất hiện từ rất lâu trong đời sống xã hội của con người. Pháp luật của rất nhiều quốc gia đã sớm có có quy định về thừa kế. Ở Việt Nam hiện nay, các vụ án dân sự có liên quan đến thừa kế chiếm số lượng không nhỏ. Chính vì vậy các quy định về thừa kế trong Luật Dân sự có vai trò rất quan trọng. Các vấn đề về thừa kế được quy định trong luật rất phức tạp và liên quan tới nhiều bộ luật khác nhau. Trong bài viết này em xin tìm hiểu quy định về người không được hưởng thừa kế theo quy định tại Khoản 1 Điều 643 trong mối liên hệ với Điều 669 Bộ luật Dân sự.

doc24 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2335 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận chung về người thừa kế và người không được hưởng di sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Thừa kế với vai trò là một phạm trù kinh tế xã hôị đã xuất hiện từ rất lâu trong đời sống xã hội của con người. Pháp luật của rất nhiều quốc gia đã sớm có có quy định về thừa kế. Ở Việt Nam hiện nay, các vụ án dân sự có liên quan đến thừa kế chiếm số lượng không nhỏ. Chính vì vậy các quy định về thừa kế trong Luật Dân sự có vai trò rất quan trọng. Các vấn đề về thừa kế được quy định trong luật rất phức tạp và liên quan tới nhiều bộ luật khác nhau. Trong bài viết này em xin tìm hiểu quy định về người không được hưởng thừa kế theo quy định tại Khoản 1 Điều 643 trong mối liên hệ với Điều 669 Bộ luật Dân sự. I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI THỪA KẾ VÀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG DI SẢN: 1. Người thừa kế: Khái niệm người thừa kế: Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản (cùng quyền sở hữu tài sản) của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng thời quy định phạm vi, quyền nghiện vụ và phương thức bảo vệ quyền, nghĩa vụ của người thừa kế. Người thừa kế là người được hưởng các quyền và gánh chịu những nghĩa vụ về tài sản từ một người đã chết theo ý chí mà người đó thể hiện trong di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Người thừa kế theo di chúc là người được chỉ định trong di chúc nên có thể là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, trong trường hợp đặc biệt thì Nhà nước cũng có thể trở thành người thừa kế nếu được cá nhân có tài sản định đoạt trong di chúc. Người thừa kế theo pháp luật phải là những người có một rong những mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản, vì vậy họ chỉ có thể là cá nhân. Những người thuộc diện và hàng thừa kế theo pháp luật được xác địn theo ba hàng thừa kế quy định tại Điều 676 Bộ Luật Dân sự 2005. Điều kiện của người thừa kế: Theo quy định của Điều 635 Bộ luật Dân sự, một cá nhân chỉ được coi là người thừa kế khi: Thứ nhất, cá nhân đó phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Nếu vào thời điểm phân chia di sản, có người thừa kế đã chết nhưng vào thời điểm mở thừa kế người thừa kế đó vẫn đang sống thì họ được coi là còn sống và được quyền hưởng di sản. Trong trường hợp người thừa kế bị tuyên bố chết trước thời điểm người để lại di sản chết nhưng họ còn sống trở về trước khi di sản người chết được phân chia thì họ vẫn được coi là còn sống và vẫn được hưởng di sản, tuy nhiên trước đó họ phải yêu cầu Tòa án hủy tuyên bố chết với họ. Thứ hai, người đó phải thành thai trước khi người để lại di sản chết nếu sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế. Nếu cá nhân sinh ra nhưng không còn sống thì sẽ không thể tiếp nhận di sản. Nhiều ý kiến cho rằng điều kiện này chỉ được áp dụng đối với người thừa kế theo pháp luật. Nghĩa là cá nhân đã sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế sẽ luôn luôn được hưởng di sản thừa kế theo di chúc, nếu đã được người để lại di sản xác định mà không bắt buộc phải thành thai tước khi người để lại di sản chết. Cũng theo Điều 635 Bộ luật Dân sự 2005 thì cơ quan, tổ chức chỉ được coi là người thừa kế theo di chúc nếu cơ quan, tổ chức đó còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Như vậy, nếu cơ quan, tổ chức được người để lại di sản chỉ định làm người thừa kế theo di chúc nhưng “không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế” thì sẽ không được hưởng di sản. Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế: Quyền của người thừa kế được quy định ở Điều 642 Bộ luật Dân sự. Theo nguyên tắc chung mọi cá nhân đều có quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Ngoài ra người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp từ chối nhằm chốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Người thừa kế phải thực hiện các nghĩa vụ sau: _ Nhưng người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại trừ trường hợp có thỏa thuận khác. _ Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghiã vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế. _ Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. _ Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân. Người không được quyền thừa kế di sản: Người bị truất quyền hưởng di sản: “Truất quyền thừa kế” là trường hợp người để lại di sản không cho người thừa kế hưởng di sản của mình. Người bị truất quyền hưởng di sản khác với người không được chỉ định trong di chúc tuy cả hai trường hợp trên đều là người không được người để lại di chúc cho hưởng tài sản. Khi một người bị truất quyền thừa kế thì người đó sẽ không có quyền hưởng di sản cả theo di chúc lẫn theo pháp luật, nghĩa là không được hưởng di sản của người để lại thừa kế. Nhưng nếu một người không được chỉ định trong di chúc thì họ vẫn có quyền hưởng thừa kế tài sản của người chết theo pháp luật nếu họ thuộc diện và hành thừa kế. Nếu di chúc không có hiệu lực hay vô hiệu một phần, khi người thừa kế trong di chúc từ chối hưởng di sản hoặc đã chia tài sản theo di chúc mà vẫn còn thì di sản còn lại đó được chia theo pháp luật họ vẫn có thể được hưởng theo pháp luật. Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế. Việc truất quyền thừa kế này phải được ghi rõ trong di chúc là truất quyền thừa kế của ai hoặc không cho ai hưởng di sản. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc ( quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự 2005) vẫn được quyền hưởng di sản thừa kế (bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu tài sản được chia theo pháp luật) cho dù người đó đã bị người lập di chúc truất quyền hưởng di sản. Họ chỉ không được hưởng di sản nếu từ chối nhận di sản hoặc rơi vào một trong các trường hợp quy định taị Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 (bị pháp luật tước quyền thừa kế). Người không được hưởng di sản theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005: Theo Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 thì phạm vi người không được quyền hưởng di sản chỉ là những người bị pháp luật tước quyền thừa kế do đã có hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản và những người thừa kế khác, có những hành vi không xứng đáng với bổn phận của mình, người có hành vi như vạy không xứng đáng hưởng di sản ngưởi để lại thừa kế, không có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật. Đây là những người bị kết án vì một trong các hành vi quy định tại điểm a, c Khoản 1 Điều 643 (hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe người để lại di sản, hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người đó, hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó được hưởng) hoặc thực hiện một trong các hành vi quy định tại điểm b, d Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005, cho dù không bị kết án về những hành vi này (hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di chúc trong việc lập di chúc, giả mào di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ tài sản trái với ý chí của người để lại di sản. Những người này đáng lẽ được hưởng di sản của người để lại di sản vì họ là người thừa kế của người để lại di sản (vì họ thuộc diện và hàng thừa kế theo pháp luật của người đẻ lại di sản hoặc đã được người để lại di sản lập di chúc cho họ được hưởng thừa kế hoặc thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự) nhưng vì có những hành vi nêu trên nên họ bị pháp luật tước quyền thừa kế. Tuy nhiên nhằm tôn trọng ý chí cua người để lại di sản nên những người nói trên vẫn được hưởng di sản “nếu người để lại di sản đã biết hành vi của họ mà vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc” (theo Khoản 2 Điều 643 Bộ luật dân sự 2005). Đối với những người không được hưởng di sản theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 họ chỉ đương nhiên không được hưởng di sản nếu di sản được chia theo pháp luật, họ vẫn có quyền hưởng phần di sản được chia theo di chúc nếu người để lại di chúc đã biết hành vi của họ mà vẫn để lại tài sản cho họ trong di chúc. Khi xác định suất thừa kế theo pháp luật để tính phần thừa kế cho người những người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự họ không là tham số trong số chia để tính nhân suất. Như vậy, những người không được quyền hưởng di sản theo nghĩa rộng bao gồm những người bị truất quyền hưởng (trừ những người được hưởng thừa kế theo Điều 669 Bộ luật Dân sự 2005) di sản và bị tước quyền hưởng thừa kế. Tuy nhiên trong phạm vi bài viết ta chỉ nghiên cứu những trường hợp bị tước quyền hưởng di sản thừa kế theo Điều 643 Bộ luật Dân sự 2005. II. NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG DI SẢN THEO QUY ĐỊNH TẠI KHOẢN 1 ĐIỀU 643 BLDS 2005. Khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản: a) Người bị kết án vì hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm người đó; b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c) Người bị kết án vì hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng mooyj phần hpawcj toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di chúc trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toan bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. …” 1. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm người để lại di sản. 1.1 Hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe người để lại di sản: Hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người để lại di sản là hành vi tước đoạt tính mạng người để lại di sản một cách trái pháp luật bằng mọi hình thức, dù với bất cứ động cơ hay mục đích gì, kể cả khi được sự đồng ý, yêu cầu của nạn nhân hay khi đó chỉ là hành vi chống trả quyết liệt nhưng vượt quá giới hạnh phòng vệ chính đáng. Hành vi tước đoạt tính mạng người khác là hành vi có khả năng hiện thực gây ra cái chết đối với họ, được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động, dưới các dạng chủ yếu như: đánh, đấm, đá, đâm, chém, xô đẩy, đầu độc, bóp cổ, bịt mặt, miệng, mũi, dìm xuống nước,… (các dạng hành động), bỏ mặc cho đến chết (dạng không hành động); còn có thể thực hiện thông qua hành động của người không có năng lực hành vi hình sự (việc xúi giục người dưới 14 tuổi thực hiện hành vi giết người, lúc này hành vi xúi giục đó sẽ được coi là hành vi giết người); với công cụ phương tiện thực hiện tội phạm khác nhau: dao, súng, gậy côn, tuýp, thuốc độc,… Về mặt chủ quan, hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người để lại di sản phải được thực hiện với lỗi cố ý, nghĩa là người phạm tội nhận thức dược rõ hành vi vi phạm của mình là nguy hiểm có thể gây hậu quả chết người nhưng vẫn mong muốn (cố ý trực tiếp) hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (cố ý gián tiếp). Như vậy nếu hành ví trên chỉ là hành vi vô ý làm chết người (Điều 98,99 BLHS) hoặc vô ý gây thương tích thì nười phạm tội cũng không bị tước quyền thừa kế tài sản của người bị họ vô ý làm chết hoặc vô ý gây thương tích. Cũng chỉ có thể tước quyền thừa kế của người có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người để lại di sản nếu người có hành vi xâm phạm đã bị kết án về hành vi đó bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật. Cơ sở để tước quyền hưởng di sản của người thừa kế có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người để lại di sản là việc cơ quan có thẩm quyền xác nhận hành vi phạm tội bằng một bản án hình sự trong đó kết án họ về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe người khác theo BLHS 1999 (các Tội giết người Điều 93, Tội giết con mới đẻ Điều 94, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Điều 95, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng Điều 96, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Điều 104, Tội gây cố ý thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Điều 105, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 106 Bộ luật Hình sự 1999) và bản án đó chỉ được coi là căn cứ để tước quyền hưởng di sản của người khi đã có hiệu lực pháp luật, bởi lẽ “Không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của tòa án” (Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự 2004). 1.2. Hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản Hành vi ngược đãi là hành vi đối xử tàn nhẫn, tồi tệ đối với người thân, người lệ thuộc mình thông qua hững hành vi như đánh đập, chửi mắng, nhục mạ, bỏ mặc, giam hãm, bắt lao động quá nặng nhọc, không cho học hành,… trong khi bản thân người ngược đãi có đật đủ điều kiện để đối xử tốt hơn. Hành vi hành hạ là hành vi đối xử tàn ác gây đau đớn về thể xác và tinh thần cho người khác, đôi khi là sự xúc phạm, làm nhục đối với người lệ thuộc vào mình khiến họ bị giày vò, đau khổ; hành hạ xảy ra thường xuyên và có tính chất nghiêm trọng hơn hành vi ngược đãi. Về mặt chủ quan, những người thực hiện hành vi trên đương nhiên có lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp vì bản tha người có hành vi hành hạ, ngược đãi khi thực hiện những hành vi đó đã nhận thức rõ hành vi của mình, thấy được hậu quả của hành vi đó nhưng vẫn mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra. Cấu thành tội phạm không đòi hỏi hai hành vi trên phải gây thương tích hoặc tổn sức khỏe cho người khác với tỉ lệ thương tật bao nhiêu mà chỉ quy định hành vi ngược đãi, hành hạ phải có tính chất nghiêm trọng. Tuy nhiên ở mức độ nào những hành vi nói trên bị xem là nghiêm trọng thì pháp luật chưa có quy định bằng văn bản cụ thể. Dù vậy, theo pháp luật quy định thì người có hành vi ngược đãi, hành hạ người để lại di sản chỉ bị tước quyền hưởng di sản thừa kế khi hành vi đó đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. Vì vậy,cần phải hiểu rằng khi những hành vi nói trên thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm và đã bị kết án thì hành vi đó đã hàm chứa tính chất nghiêm trọng. Nghĩa là bằng việc truy cứu trách nhiệm hình sự và kết án hành vi nói trên, bản án hình sự kết án người có hành vi ngược đãi, hành hạ người để lại di sản đã xác định tính nghiêm trọng của hành vi đó và là cơ sở để quyết định người có hành vi trên không được hưởng di sản. 1.3. Hành vi xâm phạm nghiêm trộng đến danh dự nhân phẩm của người để lại di sản: Hành vi xâm phạm nghiêm trọng danh dự nhân phẩm người khác thường thông qua việc dùng lời lẽ, hành vi, văn bản, hình ảnh bịa đặt mang tính chất chửi mắng, thóa mạ, miệt thị, sỉ nhục, xâm phạm; loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xâm phạm , hạ thấp danh dự, gây tổn thương nghiêm trọng hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Về mặt trách nhiệm hình sự, hành vi trên có thể cấu thành tội làm nhục người khác (Điều 121) hoặc tội vu khống (Điều 122) và nếu có hành vi vu khống, làm nhục đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc chữa bệnh cho mình thì còn thuộc trường hợp tăng nặng của khung hình phạt. Cơ sở để tước quyền thừa kế của người có hành vi xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm người để lại di sản là một bản án đã có hiệu lực pháp luạt kết án về hành vi trên. Tóm lại, điểm a Khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: người thừa kế có hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản và đã bị kết án về một trong các hành vi đó thì bị tước quyền thừa kế của người mà họ đã xâm phạm. Nếu người thừa kế chỉ bị kết án về tội hành vi vô ý làm chết người để lại di sản thì vẫn được hửng thừa kế của chính người đã bị người thừa kế gây ra cái chết đó. 2. Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản: Nuôi dưỡng là sự chăm lo về vật chất giữa người này với người khác cho dù họ có cùng chung sống hay không. Người thừa kế bị coi là có hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng là người được Luật Hôn nhân và Gia đình xác định có nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản nhưng họ không thực hiện nghĩa vụ đó. Theo quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 của nước ta thì người thừa kế được xác định là người có nghĩa vụ cấp dưỡng người để lại thừa kế trong những trường hợp sau đây: Thứ nhất, người để lại thừa kế là cha, mẹ của họ. Tại Khoản 2 Điều 36 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã quy định: “Con có nghĩa vụ nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt là cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ”. Theo quy định này thì bổn phận của con phải chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ trong mọi trường hợp, bất luận tình trạng kinh tế, sức khỏe của cha mẹ như thế nào. Thứ hai, người để lại thừa kế là con của họ. Nếu như nghĩa vụ của con là phải chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ trong mọi trường hợp, hoàn cảnh thì cha mẹ chỉ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con khi con chưa thành iên hoặc con chưa thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động hoặc không có tài sản để tự nuôi sống bản thân mình (Khoản 1, Điều 36, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000). Cha mẹ luôn là người thừa kế theo pháp luật đối với di sản do con để lại nhưng cha mẹ sẽ không được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản của con nếu cha mẹ không thực hiện việc nuôi dưỡng con đó nằm trong tình trạng nói trên. Ngược lại, một người chỉ có thể lập di chúc định đoạt tài sản khi đã có đủ năng lực hành vi dân sự hoặc trên mười lăm tuổi dù chưa đủ mười tám tuooit nhưng có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Vì vậy, cha mẹ có thể là người thừa kế theo di chúc của con trong ba trường hợp: Người con đó đã thành niên có năng lực hành vi dân sự, người con đó đã tròn mười lăm tuổi, người con đó đã thành niên nhưng bị tàn tật (không bị mất năng lực hành vi dân sự). Trong đó cha mẹ chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con (người để lại di sản) trong hai trường hợp sau. Vì vậy chỉ có thể tước quyền hưởng di sản theo di chúc của cha mẹ trong hai trường hợp này nếu họ không thực hiện đúng nghĩa vụ nuôi dưỡng. Thứ ba, người để lại thừa kế theo di chúc là anh, chị hoặc em của họ. Theo quy định của Điều 48 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì anh, chị em có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con. Phạm vi anh chị em ruột bao gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ cùng một đời (anh, chị, em cùng cha cùng mẹ; anh, chị, em cùng cha khác mẹ; anh, chị, em cùng mẹ khác cha). Như vậy, nghĩa vụ nuôi dưỡng của anh, chị, em (người thừa kế theo di chúc) đối với người để lại thừa kế khi người này nằm trong tình trạng trên, đồng thời họ là người chưa thành niên (tròn mười lăm nhưng chưa đủ mười tám tuổi) hoặc là người bị tàn tật nhưng không bị mất năng lực hành vi. Thứ tư, người để lại thừa kế là ông, bà của họ Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cũng đã xác định cháu có nghĩa vụ phụng dưỡng ông, bà (theo Khoản 2 Điều 47). Vì vậy, nếu người thừa kế theo di chúc là cháu mà không thực hiện nghĩa vụ này sẽ không được quyền hưởng di sản theo di chúc mà ông, bà xác định. Thứ năm, người để lại thừa kế là cháu của họ. Ông, bà nội, ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng nuôi mình và không có tài sản để tự nuôi dưỡng mình, đồng thời cũng không có cha mẹ, anh, chị, em có thể nuôi dưỡng (Khoản 1 Điều 47 Luật Hôn nhân và Gia đình). Vì thế, nếu người để lại thừa kế là cháu nằm trong tình trạng trên mà ông, bà là người thừa kế nhưng không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng thì họ không được quyền hưởng di sản của cháu. Nếu người
Luận văn liên quan