Đề tài Lý luận giá trị lao động của Các Mác

Chủ nghĩa Trọng thương là một bộ phận đặc biệt quan trọng của kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho những luận điểm của chủ nghĩa trọng thương trở nên lỗi thời. Trọng tâm chú ý của các nhà kinh tế học ngày càng chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Chủ nghĩa trọng thương nhường chỗ cho chủ nghĩa trọng nông. Mặc dù là giai đoạn cao hơn so với chủ nghĩa trọng thương, nhưng chủ nghĩa trọng nông còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chỉ giới hạn ở lĩnh vực sản xuất trong nông nghiệp và chưa có khái niệm đúng đắn về giá trị. Chủ nghĩa trọng nông nhường chỗ cho kinh tế học chính trị tư sản cổ điển mà tiêu biểu là kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh mở đầu từ W. Petty và kết thúc ở D. Ricardo.

doc19 trang | Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 9390 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lý luận giá trị lao động của Các Mác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Chủ nghĩa Trọng thương là một bộ phận đặc biệt quan trọng của kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho những luận điểm của chủ nghĩa trọng thương trở nên lỗi thời. Trọng tâm chú ý của các nhà kinh tế học ngày càng chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Chủ nghĩa trọng thương nhường chỗ cho chủ nghĩa trọng nông. Mặc dù là giai đoạn cao hơn so với chủ nghĩa trọng thương, nhưng chủ nghĩa trọng nông còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chỉ giới hạn ở lĩnh vực sản xuất trong nông nghiệp và chưa có khái niệm đúng đắn về giá trị. Chủ nghĩa trọng nông nhường chỗ cho kinh tế học chính trị tư sản cổ điển mà tiêu biểu là kinh tế học chính trị tư sản cổ điển Anh. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh mở đầu từ W. Petty và kết thúc ở D. Ricardo. Lý thuyết giá trị lao động là một trong những lý thuyết quan trọng của các nhà kinh tế tư sản cổ điển Anh. Qua đánh giá các điểm giá trị khoa học và hạn chế của W. Petty, Adam Smith và Ricardo trong lý luận giá trị lao động để ta thấy được Mác đã kế thừa và phát triển tư tưởng của họ như thế nào. NỘI DUNG Chương 1: LÝ LUẬN GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ TƯ SẢN CỔ ĐIỂN ANH 1.1. Khái quát sơ lược về lý luận giá trị lao động của các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Kinh tế chính trị cổ điển Anh là một trong những xu hướng tư tưởng tiến bộ, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát triển các luận thuyết kinh tế. Nhiều quan điểm chủ đạo của trường phái này vẫn còn lưu giữ ý nghĩa đến tận ngày nay. Xu hướng tư tưởng của trường phái cổ điển bắt đầu xuất hiện từ và phát triển mạnh mẽ đến nửa cuối. Đặc điểm chung của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh thể hiện nó là một trường phái kinh tế khoa học đầu tiên của giai cấp tư sản, tuy vậy những lý luạn trong thời gian này còn khá đơn sơ và hạn chế về nhiều mặt. Trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh bắt đầu từ William Petty và kết thúc ở David Ricardo. 1.2. Lý luận giá trị lao động của các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. 1.2.1. Lý luận giá trị lao động của William Petty. 1.2.1.1. Khái lược về tiểu sử và các tác phẩm của William Petty. - William Petty (1623 – 1687) sinh ra trong một gia đình làm nghề thủ công. Ông là người học rộng, biết nhiều và có nhiều tài trên các lĩnh vực hoạt động khoa học và thực tiễn. Nhờ có tài năng nên thu nhập lớn, ông bước vào hàng ngũ các nhà địa chủ quý tộc và là một nhà tư bản công nghiệp lớn. Do hoạt động lý luận gắn liền với hoạt động thực tiễn nên thế giới quan là phương pháp luận của ông vượt xa những người trọng thương thời đó. Ông đi sâu vào tìm hiểu bản chất bên trong các quá trình kinh tế và thừa nhận các quy luật kinh tế khách quan . Đó là một mốc đánh dấu sự phát triển tư tưởng kinh tế trong lịch sử. - Những tác phẩm chủ yếu của William Petty: + Bàn về thuế khóa và lệ phí (Năm 162). + Giải phẫu học chính trị Ireland (Năm 1672). + Số học chính trị (Năm 1676). + Bàn về tiền tệ (Năm 1682). Những tác phẩm đầu tay, William Petty còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương, đến tác phẩm xuất bản năm 1682 ông mới hoàn toàn đoạt tuyệt với chủ nghĩa trọng thương. - Công lao lớn nhất của William Petty là đưa ra nguyên lý giá trị lao động, điều đó làm cho ông xứng đáng là người sáng lập của kinh tế chính trị học. 1.2.1.2. Lý luận giá trị lao động của William Petty. Công lao to lớn của W.Petty là ở chỗ, ông là người đầu tiên xây dựng học thuyết về giá trị lao động. W. Petty đã có nhận xét đúng đắn khi vạch rõ vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị, tức nguồn gốc thật sự của của cải. Chỉ riêng điều này có thể nói ông là người khai sinh ra lý luận giá trị lao động. - Khi nghiên cứu về giá trị lao động, ông dùng thuật ngữ “giá cả” và chia thành “giá cả chính trị” và “giá cả tự nhiên”. Theo ông, giá cả tự nhiên do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa quyết định. Như vậy, W.Petty đã hiểu đúng giá trị - lao động với thuật ngữ “Giá cả tự nhiên” và có giá cả chính trị chính là giá cả thị trường, nó thường thay đổi theo những điều kiện chính trị, do đó khó hiểu rõ được nó. - William Petty cũng đã thấy được mối quan hệ giữa năng suất lao động với “giá cả tự nhiên”, nó tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Ông đã so sánh khối lượng lao động hao phí để sản xuất lúa mì. Nếu năng suất lao động sản xuất ra bạc tăng lên thì giá trị của nó giảm. Ông có đề cập đến lao động giản đơn và lao động phức tạp nhưng chưa phân tích đầy đủ. - Tuy nhiên, ông còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương khi cho rằng chỉ có lao động khai thác bạc (tiền tệ) mới tạo ra giá trị, lao động trong các ngành khác chỉ tạo nên của cải khi so sánh với lao động tạo ra tiền. Theo ông giá trị của hàng hóa là sự phản ánh giá trị của tiền, giống như ánh sáng Mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng Mặt trời vậy. Ông còn cho rằng lao động thương nghiệp có năng suất cao hơn nông nghiệp và ngành thương nghiệp là ngành kinh tế có lợi nhất. Đồng thời W. Petty đã đưa ra nguyên lý nổi tiếng “Lao động là cha và đất là mẹ của của cải”. Mặc dù phát triển này tạo ra sự thừa nhận đầu tiên và sâu sắc về hai “yếu tố nguyên thủy trong sản xuất”, nhưng ít có giá trị phân tích. Chắc chắn nó không tạo ra thuyết giá trị. Quan trọng hơn là nguyên cứu của W.Petty nhắm vào việc phát hiện “sự ngang hàng tự nhiên” giữa đất đai và lao động với nhau bằng việc xác định cần phải có bao nhiêu đất để sản xuất “lương thực cho một người trong một ngày”, xem giá trị của sản lượng như thế ngang bằng với giá trị lao động trong một ngày. Mục đích trong nỗ lực của W.Petty là phải hình thành một đơn vị đánh giá qua đó nhằm giảm bớt số lượng giá trị của hai yếu tố, đất đai và lao động, với số lượng đồng nhất của “sức sản xuất” sau đó dùng những tiêu chuẩn giá trị tuyệt đối, nỗ lực này cũng chứng tỏ là ngõ cụt phân tích. 1.2.2. Lý luận giá trị lao động của Adam Smith. 1.2.2.1. Khái lược về tiểu sử và các tác phẩm của Adam Smith. Adam Smith (1723 – 1790) sinh tại Kieccondi, một thành phố nhỏ của Scotland. Bố ông là một quan chức trong ngành thuế. Ông đã học tập và có được một học vấn toàn diện tại các trường Đại học của nước Anh. Năm 1748 Ông tốt nghiệp đại học, ông giảng dạy văn học và tu từ học ở trường Đại học Edinbua. Từ năm 1751 trở đi, ông giảng dạy logic, triết học, đạo đức tại Trường Đại học Glasgow và tích cực tham dự câu lạc bộ kinh tế chính trị. Năm 1759, những bài giảng của ông được xuất bản. Cuốn Lý luận về những tình cảm đạo đức đã làm ông nổi tiếng. Công tước Beclay đã mời ông làm giáo sư giảng dạy cho mình. Năm 1765, Ông sang Pháp, ở đây ông đã tiếp xúc và trao đổi với những người theo trường phái trọng nông. Điều đó có ý nghĩa lớn trong quá trình hình thành các quan điểm kinh tế ở ông. Sau một năm ở lại nước Pháp, Ông về nước Anh và xin thôi việc giảng dạy. Suốt 12 năm, ông nghiên cứu và viết tác phẩm Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giàu có của các nước xuất bản năm 1776. Tác phẩm của ông bao gồm 5 quyển: Quyển I: Trình bày về lý luận giá trị, về phân phối (Tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô). Quyển II: Trình bày tích lũy tư bản – tái sản xuất. Quyển III: Lịch sử thời trung cổ - phê phán chế độ phong kiến. Quyển IV: Phê phán những lý luận phổ biến nhất của kinh tế chính trị - chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa trọng nông. Quyển V: Thu, chi của nhà nước, chính sách thuế khóa, cho vay. Tác phẩm đó đã làm cho ông nổi tiếng trên thế giới. Với bản chất giản dị, khiêm tốn, mười bốn năm cuối đời, ông chỉ làm một quan chức nhỏ trong ngành thuế ở địa phương. 1.2.2.2. Lý thuyết giá trị lao động của Adam Smith. So với William Petty, Adam Smith có những bước tiến bộ hơn. Ông khẳng định rằng tất cả các loại lao động đều tạo ra giá trị chứ không giới hạn như trong khai thác vàng của William Petty. Đồng thời, Adam Smith cũng bác bỏ quan điểm cho rằng giá trị của hàng hóa được quyết dịnh bởi ích lợi của nó. Hơn nữa, Adam Smith còn phân tích lược giá trị của hàng hóa và cho rằng nó được xác định trong điều kiện lao động trung bình của xã hội. Lý luận về giá trị của Adam Smith chủ yếu giải quyết ba vấn đề cơ bản: - Thứ nhất: Thước đo thật sự của giá trị trao đổi là gì, hay nói cách khác là cái gì đã tạo ra giá trị thực sự của mọi thứ hàng hóa. - Thứ hai: Các bộ phận tạo nên giá trị thực sự rốt cuộc là cái gì? - Thứ ba: Trường hợp nào đã khiến cho một bộ phận hay toàn bộ giá cả nói trên có lúc cao hơn giá cả tự nhiên hoặc giá cả bình thường của chúng, có lúc lại thấp hơn giá cả tự nhiên hoặc giá cả bình thường của chúng. Giải đáp lý luận về ba vấn đề này là nội dung của lý luận về giá trị của ông. Trước khi nêu vấn đề và bắt đầu nghiên cứu lý luận giá trị, trước hết ông phân biệt hai cách dùng của từ “giá trị”: Giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Ông nói: từ “giá trị có hai nghĩa khác nhau, có lúc nó biểu thị hiệu quả sử dụng như là một vật phẩm đặc biệt, có lúc biểu thị sức mua do chỗ chiếm hữu một vật nào đó mà nó có được đối với vật khác. Cái trước gọi là giá trị sử dụng, cái sau gọi là giá trị trao dổi. Tiếp đó ông còn chứng minh rõ quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi”. Những thứ có giá trị sử dụng rất lớn, thường có giá trị trao đổi cực nhỏ, thậm chí không có. Ngược lại, những thứ có giá trị trao đổi rất lớn, thường có giá trị sử dụng cực nhỏ, hoặc không có giá trị trao đổi. Việc phân biệt rõ ràng hai khái niệm giá trị sử dụng và giá trị trao đổi này đồng thời giải thích rõ là giá trị trao đổi lớn hay nhỏ không có liên quan gì đến giá trị sử dụng, đó là công lao của Adam Smith. Nhưng ông cho rằng những thứ không có giá trị sử dụng có thể có giá trị trao đổi thì lại là sai lầm. Khi xây dựng lý luận giá trị, trước hết ông giải quyết vấn đề “Thế nào là thước đo thực sự của giá trị trao đổi”. Ông cho rằng trao đổi hàng hóa chẳng qua là trao đổi lượng giá trị lao động thể hiện trong hàng hóa đó. Vì thế, giá trị trao đổi của hàng hóa là do lao động quyết định. Điều đó là hoàn toàn tự nhiên. Lao động là thước đo thực sự để xác định giá trị trao đổi của mọi loại hàng hóa. Việc xác nhận lao động quyết định giá trị của hàng hóa là công lao và thành tích khoa học của ông. Nhưng ông không hiểu được tính chất xã hội của loại lao động này. Vì thế, khi đi sâu tìm hiểu thêm xem là lao động gì quyết định giá trị của hàng hóa, lao động xác định giá trị của hàng hóa như thế nào thì ông rơi vào sự hỗn loạn. Một mặt ông cho rằng lao động quyết định giá trị của hàng hóa là lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa. Lượng giá trị của hàng hóa tỷ lệ thuận với lượng thời gian lao động hao phí trong sản xuất. Đồng thời ông còn nghiên cứu sự phân biệt giữa lao động đơn giản và lao động phức tạp, ông cho rằng trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp có thể tạo ra giá trị nhiều hơn là lao động đơn giản. Mặc khác ông lại giải thích lao động là sự hi sinh, “yên vui, tự do và hạnh phúc”. Đồng thời ông cho rằng, lao động quyết định giá trị hàng hóa là lao động mua được hoặc có thể chi phối được hàng hàng hóa trong trao đổi. Như vậy đã rơi vào suy luận lẫn quẫn dùng giá trị quyết định giá trị. Điều này hiển nhiên là sai lầm. Ông đã lẫn lộn vấn đề giá trị đã được quyết định như thế nào trong sản xuất và giá trị đã biểu hiện như thế nào trong trao đổi. Khi giải đáp vấn đề “giá cả thật”, tức là giá trị do cái gì tạo nên, ông ý thức được rằng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa có khối lượng ngang nhau. Nhưng do chỗ ông chưa phân biệt được lao động và sức lao động, vì vậy ông không thể giải thích lao động (mà tư bản mua được trong điều kiện trao đổi ngang giá trên cơ sở lý luận giá trị lao động) làm thế nào có thể đẻ ra lợi nhuận. Thế là đã xa rời lý luận giá trị lao động, ông khẳng định rằng, quy luật giá trị chỉ thích hợp với “xã hội mông muội thời kỳ đầu”, mà giá trị không thích hợp với xã hội tư bản chủ nghĩa. Ông cho rằng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giá trị hàng hóa không còn quyết định bởi lượng lao động hao phí trong sản xuất vừa do lượng lao động mua được quyết định. Lượng lao động mua được có thể phân tích thành ba loại thu nhập là tiền lương, lợi nhụận và địa tô. Ngược lại cũng có thể nói lượng lao động mua được là do ba loại thu nhập - tiền lương, lợi nhuận và địa tô tạo thành. Như vậy trên thực tế đã chuyển giá trị là do lao động quyết định sang giá trị quýêt định bởi ba loại thu nhập. Vì vậy, ông nói “tiền lương, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc cơ bản của mọi thu nhập và mọi giá trị có thể trao đổi”. Quan điểm này của ông được các nhà kinh tế học tư sản sau đó phát triển thành lý luận về chi phí sản xuất. Ông cho rằng giá trị hàng hóa được chia thành ba loại thu nhập là sai lầm. Ở đây ông lẫn lộn giá trị hàng hóa với giá trị sáng tạo mới của lao động. Vấn đề thứ ba trong lý luận giá trị của ông là nghiên cứu quy luật giá trị và tác dụng của nó. Ông đã phân biệt giá cả thị trường và giá cả tự nhiên. Giá cả tự nhiên là chỉ giá cả cấu tạo nên theo mức tự nhiên, tức là tiền lương, lợi nhuận và địa tô chi trả theo mức bình quân. Giá cả thực tế là chỉ giá cả sản xuất thống nhất với giá trị. Giá cả thị trường do sự thay đổi quan hệ cung cầu của hàng hóa, nên có lúc cao hơn có lúc thấp hơn giá cả tự nhiên, nhưng do tự do cạnh tranh, giá cả thị trường thường có xu thế tự nhiên nhất trí với giá cả tự nhiên. Có thể thấy rằng, không những ông coi giá cả dao động xoay quanh giá trị là một hiện tượng có tính quy luật, mà còn chứng minh rõ tác dụng điều tiết của quy luật giá trị đối với sản xuất hàng hoá. Nhưng do chỗ không hiểu được mối liên hệ nội tại giữa giá trị và giá cả, ông không giải thích được sự xa rời giá cả khỏi giá trị chính là hình thức tác dụng của quy luật giá trị. Nguyên tắc của trao đổi hàng hóa là ngang giá: Hai hàng hóa đựơc trao đổi ngang bằng nhau vì số lao động đã chi phí để sản xuất ra chúng là ngang nhau. Người sản xấut hàng hóa này mua hàng hóa khác, nghĩa là, lao động hao phí của anh ta đã ngang bằng với hao phí lao động của ngừơi bán. Ông cho rằng, trong xã hội trước chủ nghĩa tư bản thì toàn bộ giá trị do người lao động tiêu dùng hết. Nó bằng tiền lương của người lao động. Nhự vậy, giá trị do lao động tạo ra chỉ đúng trong nền kinh tế hàng hóa giản đơn. A. Smith cho rằng, trong chủ nghĩa tư bản, quy luật giá trị đã bị vi phạm, nguyên tắc ngang giá đã không được tuân thủ giữa người công nhân và nhà tư bản . Ông thấy rằng nhà tư bản chỉ trả cho người công nhân một phần giá trị, phần khác của giá trị được nhà tư bản giữ lại với tư cách là lợi nhuận. Từ đó, ông cho rằng, trong chủ nghĩa tư bản, giá trị đuợc quyết định bởi thu nhập, nó bao gồm tiền lương, lợi nhuận và địa tô. “Tiền lương, lợi nhuận, địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như là của bất kỳ giá trị trao đổi nào”. Đây là giáo điều của A.Smith đã lẫn lộn giữa sự hình thành giá trị và phân phối giá trị. Ông đã xem thường yếu tố tư liệu sản xuất trong việc hình thành giá trị (chỉ có V + M mà thiếu C). Ông đã biến các bộ phận thu nhập từ giá trị nguồn gốc của giá trị. Như vậy, ông đã xa rời lý luận giá trị-lao động. Tóm lại, do hạn chế về lập trường, quan điểm và phương pháp, nên lý luận giá trị của ông vừa có yếu tố khoa học vừa có yếu tố tầm thường, đồng thời trên thực tế ông đã rơi vào tình trạng hỗn loạn. Nhưng lý luận giá trị của ông không không kể là chiều sâu hay chiều rộng đều vượt các bậc tiền bối của ông, nhất là ông lại là người đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý luận giá trị lao động, đồng thời về cơ bản ông đã kiên trì dùng lý luận giá trị lao động để nghiên cứu vấn đề lợi nhuận và địa tô. Đó là đóng góp chủ yếu của ông về mặt khoa học. 1.2.3. Lý luận giá trị lao động của David Ricardo. 1.2.3.1. Khái lược về tiểu sử và các tác phẩm của David Ricardo. David Ricardo (1772 – 1823) sinh ra trong một gia đình giàu có tại nước Anh. Bố là người Hà Lan di cư sang Anh, một nhà kinh doanh chứng khoán ở Châu Âu. David Ricardo là một nhà khoa học, một nhà kinh doanh chứng khoán, một nhà quý tộc, một nhà hoạt động chính trị. Năm 1784, ông được gởi sang học ở Amstecdam. Học xong trung học ông đã tự ý lấy vợ và phải sống tự lập từ năm 21 tuổi. Năm 1797, ông tiếp tục học tập và nghiên cứu các môn khoa học cơ bản mà sở thích của ông là kinh tế chính trị. Từ năm 1807, ông chuyên nghiên cứu về kinh tế chính trị và công bố nhiều tác phẩm về tiền tệ. Tác phẩm Giá cả cao của thoi nén là bằng chứng của việc giảm giá ngân phiếu công bố năm 1811, với quan điểm “Giá trị tiền tệ quyết định số lượng tiền tệ” đã gây chấn động trong khoa học cũng như các tầng lớp tư sản. Năm 1815, ông xuất bản cuốn Bàn về giá của lúa mì. Ông đã luận chứng sự cần thiết phải bãi bỏ thuế quan về lúa mì và lên án các đạo luật bảo vệ lợi ích người thu tô. Năm 1817, ông xuất bản tác phẩm Những nguyên lý khoa kinh tế chính trị hay Những nguyên lý cơ bản của chính sách kinh tế và thuế khóa. Tác phẩm này đã làm ông nổi tiếng trên toàn thế giới. 1.2.3.2. Lý thuyết giá trị lao động của David Ricardo. Ông là người kế thừa và phát triển lý luận của Adam Smith, đã đứng vững trên quan điểm giá trị lao động: - Phân biệt giá trị và của cải (giá trị sử dụng), giá trị khác xa của cải, giá trị không phụ thuộc có nhiều hay ít của cải mà phụ thuộc vào điều kiện sản xuất khó khăn hay dễ dàng. Tức là ông đã phân biệt hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Ông cho rằng giá trị sử dụng rất cần thiết nhưng không quyết định giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi do lao động quyết định. - Đã gạt bỏ sai lầm của A .Smith về giá trị và cho rằng giá trị hàng hóa do lao động hao phí quyết định không chỉ dungd trong kinht ế hàng hóa giản đơn, mà còn đúng trong nền kinh tế hàng hóa phát triển (kinh tế hàng hóa TBCN). D. Ricardo cho rằng giá trị hàng hóa được phân chia thành các nguồn thu nhập nói trên: David Ricardo khẳng định giá trị không chỉ do lao động trực tiếp (lao động sống) mà còn do lao động trước đó nữa tạo ra,như máy móc,nhà xưởng, công trình sản xuất. Ông đã biết đến một phần trong giá trị của lao động quá khứ trong giá trị hàng hóa. Ông nghiên cứu ảnh hưởng của năng suất lao động đến giá trị hàng hóa. Cho rằng khi năng suất lao động trong một phân xưởng tăng lên,thì khối lượng sản phẩm làm ra tăng lên,nhưng giá trị của một đơn vị sản phẩm lại giảm xuống. Ông nghiên cứu mối quan hệ giữa giá trị với giá trị trao đổi và giá cả.Đây là một trong những vấn đề phức tạp nhất của kinh tế chính trị học đương thời. Cho rằng giá cả hàng hóa là giá trị trao đổi của nó được biểu hiện bằng tiền, còn giá trị được đo bằng số lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa. Ông đã phân biệt được giá trị với giá trị trao đổi. Những hạn chế trong lý luận giá trị - lao động của David Ricardo: - Không thấy được mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị hàng hóa,chưa làm rõ mặt vật chất giá trị do chưa biết đến tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, chưa chỉ ra được giá trị là biểu hiện quan hệ xã hội của những người sản xuất hàng hóa. - Mặc dù đã nêu ra khái niệm thời gian lao động xã hội cần thiết, lao động phức tạp và lao động giản đơn, nhưng chưa xác định đúng nội hàm của các phạm trù này. Tuy đã quan tâm đến ảnh hưởng của năng suất lao động tới lượng giá trị hàng hóa, nhưng chưa nghiên cứu đầy đủ mặt lượng giá trị, chưa làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa . - Chưa nghiên cứu hệ thống các hình thái giá trị, nên chưa thấy được nguồn gốc và bản chất của tiền. - Lý luận của David Ricardo còn mang tính siêu hình, phi lịch sử cho rằng giá trị là phạm trù vĩnh viễn, là thuộc tính của mọi vật. 1.2.4. Đánh giá chung. Nhìn chung, lý luận giá trị của trường phái cổ điển đã có những đóng góp đáng kể, tạo tiền đề cho lý luận của Các Mác. Tuy nhiên, học không thể giải quyết triệt để những vấn đề của lý luận giá trị lao động như: Giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa được tạo ra như thế nào, chưa thấy được vai trò của máy móc, thiết bị trong việc hinh thành giá trị do đó chưa phân tích đủ lược giá trị của hàng hóa. Chính điều đó đã làm cho trường phái kinh tế chính trị cổ điển Anh không thể tiến sâu tới chân lý khoa học, chưa khái quát thành những quy luật kinh tế chi phối sự vận động của nền sản xuất hà
Luận văn liên quan