Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay

Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế lạc hậu nghèo nàn, đã bước vào thời kỳ đổi mới và đạt được những thành tựu nhất định. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang làm được những thành tựu như vậy là do nhận thức đúng đắn con đường đi lên xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời vận dụng những quan điểm cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất là một trong những quan điểm khoa học mà chứng ta đã và đang sử dụng một cách khá triệt để trong sự nghiệp phát triển đất nước. Bởi lẽ quy luật đó cho ta biết cách thức, phương thức của quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Việc nhận thức được quy luật này đã đóng góp vai trò to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước ta không chỉ trong giai đoạn hiện nay và cả sau này. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, sau đây, nhóm 6 xin trình bày về chủ đề: “Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay”.

docx19 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 39606 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế lạc hậu nghèo nàn, đã bước vào thời kỳ đổi mới và đạt được những thành tựu nhất định. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang làm được những thành tựu như vậy là do nhận thức đúng đắn con đường đi lên xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời vận dụng những quan điểm cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất là một trong những quan điểm khoa học mà chứng ta đã và đang sử dụng một cách khá triệt để trong sự nghiệp phát triển đất nước. Bởi lẽ quy luật đó cho ta biết cách thức, phương thức của quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Việc nhận thức được quy luật này đã đóng góp vai trò to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước ta không chỉ trong giai đoạn hiện nay và cả sau này. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, sau đây, nhóm 6 xin trình bày về chủ đề: “Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào sự đổi mới của Việt Nam hiện nay”. Với khả năng có hạn cùng những hạn chế nhất định về quỹ thời gian, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, Nhóm 6 rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô. Trân trọng cảm ơn! MỤC LỤC CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN Khái niệm Chất: Là “tổng thể các thuộc tính cho biết đối tượng là gì?” Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác. Chất có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do những thuộc tính, những yếu tố cấu thành quy định. Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật. Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính trong đó mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi. Những thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác. Sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính chất tương đối, tùy theo từng mối quan hệ. Chất của sự vật không những quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác nhau. Mỗi sự vật có vô vàn chất: vì sự phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ có ý nghĩa tương đối, song sự vật có vô vàn thuộc tính nên có vô vàn chất. Chất và sự vật không tách rời nhau: chất là chất của sự vật, còn sự vật tồn tại với tính quy định về chất của nó. Chất biểu hiện trạng thái tương đối ổn định của sự vật, là sự kết hợp tương đối trọn vẹn, hoàn chỉnh, bền vững các thuộc tính của sự vật, làm cho sự vật này không hòa lẫn với sự vật khác mà tách biệt cái này với cái khác. Chất luôn gắn liền với lượng của sự vật. Lượng: Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm “Những lượng không tồn tại mà những sự vật có lượng hơn nữa những sự vật có vô vàn lượng mới tồn tại” – Engels. Trong thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây hay một phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hydrô liên kết với một nguyên tử oxy, bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ nhận thức tri của một người ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,... trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hoá. Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật). Bản thân lượng không nói lên sự vật đó là gì, các thông số về lượng không ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật, đó là mặt không ổn định của sự vật. Nội dung quy luật Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất bao gồm chất và lượng nhất định, trong đó chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Sự biến đổi này tạo ra mâu thuẫn giữa lượng và chất. Lượng biến đổi đến một mức độ nhất định và trong những điều kiện nhất định thì lượng phá vỡ chất cũ, mâu thuẫn giữa lượng và chất được giải quyết, chất mới được hình thành với lượng mới, nhưng lượng mới lại biến đổi và phá vỡ chất đang kìm hãm nó. Quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt: chất và lượng tạo nên sự vận động liên tục, từ biến đổi dần dần đến nhảy vọt, rồi lại biến đổi dần để chuẩn bị cho bước nhảy vọt tiếp theo. Cứ căn cứ thế, quá trình động biện chứng giữa chất và lượng tạo nên cách thức vận động, phát triển của sự vật. Khái niệm độ: Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, sự vật chưa biến thành cái khác. Trong giới hạn của độ, lượng và chất tác động biện chứng với nhau, làm cho sự vật vận động. Chu trình thay đổi: Từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổ định, còn lượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. So với lượng thì chất thay đổi chậm hơn. Chỉ khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (độ) thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất, sự vật không còn là nó nữa, một sự vật mới ra đời thay thế nó. Tại thời điểm lượng đạt đến một giới hạn nhất định để vật thay đổi về chất gọi là điểm nút. Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Ví dụ: 0c, 100c là điểm nút, tại những điểm nút đó nước từ thể lỏng chuyển sang thể rắn và thể hơi (thay đổi về chất). Khi có sự thay đổi về chất diễn ra gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự đứt đoạn trong liên tục, nó không chấm dứt sự vận động nói chung mà chỉ chấm dứt một dạng vận động cụ thể, tạo ra một bước ngoặt mới cho sự thống nhất biện chứng giữa chất và lượng trong một độ mới. Các hình thức cơ bản của bước nhảy. Bước nhảy để chuyển hoá về chất của sự vật hết sức đa dạng và phong phú với những hình thức rất khác nhau. Những hình thức bước nhảy khác nhau được quyết định bởi bản thân của sự vật, bởi những điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện bước nhảy. Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật, có thể phân chia thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần. Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Chẳng hạn, khối lượng Uranium 235(Ur 235)được tăng đến khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát. Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi. Bước nhảy dần dần khác với sự thay đổi dần dần về lượng của sự vật. Bước nhảy dần dần là sự chuyển hoá dần dần từ chất này sang chất khác còn sự thay đổi dần dần về lượng là sự tích luỹ liên tục về lượng để đến một giới hạn nhất định sẽ chuyển hoá về chất. Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ, có bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật. Khi lượng biến đổi đến điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế cho chất cũ, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn ra theo cách thức từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất một cách vô tận. Đó là quá trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận động, phát triển. Tác động ngược: Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng. Lượng thay đổi luôn luôn trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song sự tác động của chất đối với lượng rõ nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất mới thay thế chất cũ, nó quy định quy mô và tốc độ phát triển của lượng mới trong một độ mới. Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự quy định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng. Ý nghĩa phương pháp luận: Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chú ý tích lũy dần những thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi. Chống lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy. Phải thấy được tính đa dạng của bước nhảy, nhận thức được từng hình thức bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực hiện kịp thời. Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội tủ các điều kiện chín muồi. ÁP DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT VÀO SỰ ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY: Từ một nước nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, VN đã xây dựng được cơ sở vật chất- kỹ thuật hạ tầng kinh tế - xã hội [ diện mạo đất nước có nhiều thay đổi. Trước CM tháng 8: Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, kinh tế VN chìm đắm trong đói nghèo và lạc hậu. Nông nghiệp và công nghiệp chịu tác động nặng nề của chế độ thực dân kiểu cũ nên rất lạc hậu. Nông nghiệp nước ta hết sức nghèo nàn về cơ sở vật chất, lạc hậu về kỹ thuật, hoàn toàn dựa vào lao động thủ công và phụ thuộc vào thiên nhiên. Năng suất các cây trồng rất thấp. Vào thời kỳ 1930-1944, năng suất lúa bình quân 12 tạ/ ha trong khi Thái Lan là 18 tạ/ ha, Nhật Bản là 34 tạ/ha. Sản xuất công nghiệp rất nhỏ bé và què quặt, chủ yếu là công nghiệp khai thác mỏ. Sau CMT8 đến năm 1975: CMT8 thành công, chủ tịch HCM đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chính phủ mới ra đời đã phải đối mặt với hàng loạt khó khăn và thách thức. Trong thời kỳ này, kình tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng nên cùng với việc động viên nông dân tích cực tăng năng suất, chính phủ từng bước cải cách về ruộng đất giảm tô, giảm tức.Nhờ đó trong các vùng giải phóng sản xuất nông nghiệp phát triển tăng 13.7% so với năm 1946, nhiều cơ sở công nghệp quan trọng phục vụ quốc phòng và sản xuất hàng hóa tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân được khôi phục và mở rộng. Từ 1976 đến 1986: Sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước, nhân dân VN đã đạt được những thành tựu: Khôi phục cơ sở công nghiệp , nông nghiệp, giao thông ở Miền Bắc, củng cố nền kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ở Miền bắc XD lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá, cải tạo và sắp xếp công thương nghiệp tư doanh ở miền Nam, đưa bộ phận nông dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ vào con đường làm ăn tập thể. Bước đầu phân bố lại lực lượng lao động xã hội. Tuy nhiên, kết quả sản xuất trong những năm này chưa tương xứng với sực lao động và vốn đầu tư bỏ ra, mất cân đối của nền kinh tế quốc dân còn trầm trọng, thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội(không có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế vì làm không đủ ăn, thu nhập quốc dân sản xuát chỉ bằng 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng), thị trường tài chính tiền tệ không ổn định(siêu lạm phát hoành hành, lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc độ tăng giá 774,7%), đời sống nhân dân lao động còn khó khăn, lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. Nguyên nhân: Khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH, chúng ta đã nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần, dựa trên cơ sở công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, mọi thành phần kinh tế khác bị coi là một bộ phận đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải tạo, xóa bỏ, làm như vậy chúng ta đã đẩy quan hệ SX đi quá xa so với trình độ phát triển của lượng lực sản xuất. Tạo ra mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp kém, với một bên là quan hệ sản xuất đã được xã hội hóa giả tạo, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của LLSX. Hay nói cách khác, LLSX của chúng ta còn quá thấp kém,chưa tích lũy đủ về lượng (tính chất và trình độ) đã vội thay đổi chất (Quan hệ sản xuất) làm cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoàng kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 1981- 1985 nhiều Nghị quyết và Quyết định quan trọng của Đảng và chính phủ được ban hành từng bước nhằm sửa đổi cơ chế quản lý đối với kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế tự nhân và xóa bỏ quan liêu bao cấp. Đại hội toàn quốc lần thứ V bước đầu có cách nhìn mới về nền kinh tế nhiều thành phần. Thừa nhận nền kinh tế miền Bắc tồn tại 3 thành phần: quốc doanh, tập thể và cá thể. Nền kinh tế phía Nam gồm 5 thành phần: quốc doanh, tập thể, công tu hợp danh, tư bản tư nhân và cá thể.Đó là bước khởi đầu cho sự thay đổi cơ cấu các chủ thể sản xuất kinh doanh tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển kinh tế thị trường. Thời kỳ 1986 đến nay Trước tình hình khó khăn đó, đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh tế. Tích cực đến sự phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ, khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mở rộng sản xuất để thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp. Năng suất lúa không ngừng tăng, không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà VN đã xuất khẩu lương thực ra quốc tế, sản lượng không ngừng tăng. Từ nước thiếu lương thực VN trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới liên tục từ năm 1989 đến nay. Sản xuất các ngành công nghiệp then chốt đã phục hồi và tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên thành tựu và khởi sắc của công nghiệp thực sự bắt đầu trong những năm 90. Bình quân 5 năm 1991-1995, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành đạt 13,7% trong đó khu vực nhà nước tăng 15% , khu vực ngoài quốc doanh tăng 10,6%. Trong 5 năm 1996-2000: sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển ổn định và tăng trưởng với nhịp độ cao. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1996 tăng 14,2%, năm 1997 tăng 13,8% ,năm 1998 tăng 12,1% , năm 1999 tăng 10,4% và năm 2000 tăng 17,5%. Những sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả chất lượng và cả số lượng, đáp ứng nhu cầu trong nước và tham gia xuất khẩu.Các sản phẩm xuất khẩu thường là các sản phẩm thô như than , dầu thô, kim loại nặng Công nghiệp FDI do có lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị trường xuất khẩu khá ổn định, lại được Nhà nước khuyến khích bằng các cơ chế chính sách ngày càng thông thoáng nên trong những năm qua phát triển khá nhanh và ổn định hơn hẳn khu vực trong nước. Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối của thập kỷ 90 đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm với sự tham gia của các thành phần kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và công nghiệp FDI. Trong đó công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo. Hơn nữa với phương châm VN muốn làm bạn và đối tác chiến lược kinh tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Cho đến nay đã có 59 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Việt Nam đã ký kết mười Hiệp định thương mại tự do khu vực và song phương (gồm sáu FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN; bốn FTA đàm phán với tư cách là một bên độc lập); vừa hoàn tất đàm phán hai FTA (Liên minh châu Âu và TPP); đang tích cực đàm phán ba FTA khác (ASEAN - Hồng Công; EFTA; RCEP). Việc tham gia ký kết và đàm phán tham gia các FTA có tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, nhất là đến nay Việt Nam đã tham gia vào ba chuỗi giá trị có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu đó là: Chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực; chuỗi giá trị năng lượng và an ninh năng lượng (dầu mỏ, khí, than) và chuỗi giá trị hàng dệt may và da giày. Nguyên nhân của những thành tựu đạt được nêu trên: Nhờ có nhận thức đúng đắn, đổi mới tư duy lý luận của Đảng về tính tất yếu của phát triển kinh tế thị trường; quyết định chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN; xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, kiên trì lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các quyết sách về kinh tế, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tích cực tham gia. Sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế thị trường sát thực và hiệu quả hơn. Mở rộng, phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực hiện ngày càng tốt vai trò làm chủ về kinh tế của nhân dân. Vai trò lãnh đạo cũng như nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng rõ nét, theo đó đã xác định tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức đảng, tăng cường lãnh đạo và kiểm tra về phát triển kinh tế. Nhưng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa có mô hình sẵn, chưa phải là một đường lối kinh tế đầy đủ, một định hướng rõ ràng để chị đạo nền kinh tế phát triển. Chúng ta đã rất đúng khi đề ra đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nhưng ở đây cũng chưa thấy rõ mục tiêu, chiến lược, kế hoạch thực hiện cụ thể cũng như kết quả của nó. Do vậy, có thể thấy mục tiêu đạt ra trong tương lai sẽ rất khó khăn. Ðến nay, trên thực tế, nhìn chung nền kinh tế của chúng ta có phát triển nhưng chưa vững bền, còn nhiều lúng túng, vấn đề CNH-HÐH chưa có m
Luận văn liên quan