Quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự(QPPLHS)
diễn ra phức tạp và đa dạng, được thểhiện ở3 giai đoạn: Định tội
danh, định khung hình phạt, và quyết định hình phạt. Trong đó, định
tội danh là một giai đoạn quan trọng nhất trong ba giai đoạn trên của
toàn bộquá trình áp dụng PLHS. Bởi vì, định tội danh được tiến hành
thực hiện ởtất cảcác giai đoạn của cảquá trình tốtụng hình sựtừgiai
đoạn khởi tố đến giai đoạn thi hành án. Trong khi đó bước quyết định
hình phạt chỉ được tiến hành thực hiện ởgiai đoạn xét xử.
Định tội danh là một trong những biện pháp đưa Bộluật hình sự
(BLHS) vào đời sống xã hội, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, qua đó góp phần thực hiện
đường lối chính sách hình sựcủa Đảng và Nhà nước ta.
Định tội danh là sựxác nhận vềmặt pháp lý sựphù hợp (sự
đồng nhất) giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong thực
tếkhách quan với các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm (CTTP)
tương ứng được quy định trong BLHS. Hay nói cách khác, Định tội
danh là việc xác định một hành vi cụthể đã thực hiện thoảmãn đầy đủ
các dấu hiệu của CTTP của tội nào trong sốcác tội phạm đã được quy
định trong BLHS.
Vềphương pháp định tội danh: Chủyếu sửdụng phương pháp
tổng hợp, phân tích, quy nạp, diễn dịch và quan trọng hơn cảlà
phương pháp loại trừ.
39 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6057 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận về định tội danh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÝ LUẬN ĐỊNH TỘI DANH
CHƯƠNG 1.
KHÁI NIỆM ĐỊNH TỘI DANH
1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊNH TỘI DANH
Quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự (QPPLHS)
diễn ra phức tạp và đa dạng, được thể hiện ở 3 giai đoạn: Định tội
danh, định khung hình phạt, và quyết định hình phạt. Trong đó, định
tội danh là một giai đoạn quan trọng nhất trong ba giai đoạn trên của
toàn bộ quá trình áp dụng PLHS. Bởi vì, định tội danh được tiến hành
thực hiện ở tất cả các giai đoạn của cả quá trình tố tụng hình sự từ giai
đoạn khởi tố đến giai đoạn thi hành án. Trong khi đó bước quyết định
hình phạt chỉ được tiến hành thực hiện ở giai đoạn xét xử.
Định tội danh là một trong những biện pháp đưa Bộ luật hình sự
(BLHS) vào đời sống xã hội, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, qua đó góp phần thực hiện
đường lối chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta.
Định tội danh là sự xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp (sự
đồng nhất) giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong thực
tế khách quan với các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm (CTTP)
tương ứng được quy định trong BLHS. Hay nói cách khác, Định tội
danh là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thoả mãn đầy đủ
các dấu hiệu của CTTP của tội nào trong số các tội phạm đã được quy
định trong BLHS.
Về phương pháp định tội danh: Chủ yếu sử dụng phương pháp
tổng hợp, phân tích, quy nạp, diễn dịch và quan trọng hơn cả là
phương pháp loại trừ.
Từ các vấn đề nêu trên cho thấy định tội danh có 4 đặc điểm
như sau:
a. Định tội danh là một quá trình nhận thức có tính logic giữa lý
luận và thực tiễn. Thể hiện dưới 2 khía cạnh: xác định xem hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện có phù hợp với các dấu hiệu của
CTTP cụ thể trong BLHS và đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp
lý hình sự đối với hành vi đã thực hiện trong thực tế.
b. Quá trình hoạt động định tội danh phải tuân thủ nghiêm
chỉnh các quy phạm pháp luật của luật nội dung là BLHS cũng như
các quy phạm pháp luật của luật hình thức là Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS).
c. Định tội danh là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Toà
án) để cụ thể hoá các QPPLHS trìu tượng vào đời sống thực tế. Trên
cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết của hành vi phạm tội đã
thực hiện và sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn nội dung của các
QPPLHS.
d. Định tội danh với tính chất là một dạng của hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự được tiến hành theo 04 bước sau:
Bước1: Thiết lập, xem xét, đánh giá đúng các tình tiết của vụ án
đã xảy ra trên thực tế khách quan.
Đối với bước này, đòi hỏi người định tội danh phải đánh giá các
tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, vô tư, không định
kiến, không suy diễn. Phải dựa vào các chứng cứ đã thu thập được và
đánh giá theo quy định của BLTTHS.
Mỗi một tình tiết trong vụ án bước đầu đánh giá chúng một
cách độc lập để thấy được sự thể hiện tính chất của nó là loại hành vi
nào. Sau đó, chính tình tiết đó lại tiếp tục đặt trong mối quan hệ với
các tình tiết khác trong vụ án, thì kết luận về tính chất của tình tiiết
này mới là sự thể hiện về bản chất của nó trong cả quá trình của vụ án.
Đánh giá mỗi tình tiết của vụ án, phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ
thể, trong tổng thể, biện chứng của cả quá trình phản ánh đúng diễn
biến của vụ án đã xẩy ra. Bởi vì, cùng một tình tiết, nhưng đặt trong
mỗi hoàn cảnh khác nhau thì chúng khác nhau về bản chất. Kết luận
về từng tình tiết độc lập, không thể phản ánh đúng về bản chất của
tình tiết đó trong toàn bộ diễn biến của vụ án.
Bước 2: Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung
các quy phạm pháp luật hình sự phản ánh các dấu hiệu của CTTP về
tội danh có hướng lựa chọn.
Các dấu hiệu trong CTTP được quy định trong BLHS mang
tính trìu tượng chỉ nêu một cách khái quát những nét đặc trưng mang
tính phổ biến để điều chỉnh hiện tượng thực tế muôn hình muôn vẻ.
Đòi hỏi phải có quá trình tư duy để nhận thức sâu rộng, đúng đắn về
nội dung của các dấu hiệu trong CTTP. Rất nhiều các QPPLHS chưa
xác định rõ ràng ranh giới giữa chúng với nhau. Ví dụ: Điều 93 với
Điều 95 với Điều 96 và với Điều 97. Hoặc là hành vi khác trong tội
cướp với hành vi khác trong tội cưỡng đoạt tài sản. Hoặc việc quyết
định hình phạt trong trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết tăng nặng
đồng thời có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Hoặc như thế nào là nguy hiểm
đáng kể và nguy hiểm chưa đáng kể. Hoặc ranh giới giữa Phòng vệ
chính đáng với vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Chưa kể còn
một số quy định trong BLHS thể hiện rõ sự bất cập của nó như: chính
sách hình sự đối với người phạm tội chưa đủ 16 tuổi. Tình tiết phạm
tội nhiều lần của tội cố ý gây thương tích. Hoặc trộm cắp tài sản nhiều
lần, mỗi lần giá trị tài sản dưới 500.000đ.
Trong các trường hợp này đòi hỏi người định tội danh phải tự
đánh giá trên căn cứ khoa học và căn cứ thực tế sao cho có sức thuyết
phục. Hay nói cách khác, đòi hỏi người định tội danh phải có trình độ
pháp lý hình sự.
Bước 3: So sánh đối chiếu hai quá trình trên.
Bước 4: Ra văn bản áp dụng pháp luật chính là bản án và các
quyết định có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục về 3 bước trên để
xác định tội danh cần áp dụng đối với trường hợp phạm tội của người
đó.
Qua các đặc điểm của định tội danh đã phân tích ở trên có thể
đưa ra khái niệm định tội danh như sau: Định tội danh là một quá trình
nhận thức lý luận có tính lô gích, đồng thời là một trong những dạng
của hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS, PLTTHS. Trên cơ sở các
chứng cứ, tài liệu thu thập được phản ánh các tình tiết thực tế của vụ
án đã xảy ra để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù
hợp của chúng với các dấu hiệu của CTTP cụ thể tương ứng do BLHS
quy định.
Có thể thấy được đặc điểm và các yêu cầu của hoạt động định
tôi danh thông qua việc đánh giá một tình huống cụ thể sau:
Tình huống: Do mâu thuẫn trong viẹc tranh chấp đất đai nên Đỗ
Văn Tuyên, Đỗ Văn Cần nhiều lần rượt, đuổi đánh chém Nguyễn Văn
Hùng. Thấy cha, chú có hành vi như thế nên Đõ Trương Tín là con
cũng trực tiếp đánh chém Nguyễn Văn Hùng. Biết Hùng làm nghề hớt
tóc ở thôn 2, xã Nghĩa Dũng, Thị xã Quảng Ngãi, nên Tín (sinh năm
1989) đón đường để đánh. Sáng 28/05/2002, Hùng đi làm bằng xe
máy, khi đến gần ngã ba giáp ranh thôn 3 và thôn 4 thuộc xã Nghĩa
Dũng thì Tín cầm một con dao dài khoảng 30 cm và đá đứng chặn
đường để đánh Hùng, Hùng sợ nên quay xe về nhà để lánh mặt.
Khoảng 10 phút sau, Hùng tiếp tục điều khiển xe máy nêu trên đến
tiệm hớt tóc, khi đến đoạn đường trên, Tín vẫn cầm daovaf đá đứng
chặn đường. Nhìn thấy Hùng, ngay lập tức đuổi theo để đánh, Hùng
bỏ chạy vào nhà một người dân trước chợ Nghĩa Dũng, Tín tiếp tục
đuổi theo và dùng đá chọi Hùng và Hùng cũng nhặt đá chọi lại Tín,
sau đó được mọi người can ngăn nên Tín đi về phía Tây, còn Hùng
điều khiển xe máy về nhà ở thôn 5, xã Nghĩa Dũng, thị xã Quảng
Ngãi.Về đến nhà Hùng nhìn thấy cây rựa dài 77cm để ở sân nên cầm
lấy mang theo và tiếp tục điều khiển xe máy đi làm. Khi đến đoạn gần
ngã ba nêu treenthif Tín vẫn cầm dao và đá đứng chặn đường, nhìn
thấy Hùng, Tín dùng đá ném Hùng và Hùng dùng đá chọi lại Tín. Sau
đó Tín cầm dao xông đến chém Hùng và Hùng cầm rựa xông vào Tín,
khi đến gần nhau Tín đưa dao lên chém ngang cổ Hùng và Hùng cầm
rựa chém lại trúng vào tay cầm dao của Tín gây thương tích 33%.
1.2. PHÂN LOẠI ĐỊNH TỘI DANH
Căn cứ vào chủ thể thực hiện việc định tội danh, khoa học luật
hình sự chia định tội danh thành 2 nhóm:
1.2.1. Định tội danh chính thức
Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước tính
chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể
được Nhà nước uỷ quyền thực hiện.
Định tội danh chính thức có các đặc điểm sau:
+ Về chủ thể của định tội danh chính thức: Chỉ có thể là người
tiến hành tố tụng. Bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân.
+ Về hậu quả pháp lý của định tội danh chính thức: Những
đánh giá, những kết luận của chủ thể của định tội danh chính thức là
cơ sở pháp lý để khởi tố vụ án, để áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
Là cơ sở để ra bản kết luận điều tra, bản cáo trạng và ra bản án.
1.2.2. Định tội danh không chính thức
Định tội danh không chính thức là sự đánh giá không phải về
mặt Nhà nước tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ
thể.
Định tội danh không chính thức có các đặc điểm sau:
+ Về chủ thể của định tội danh không chính thức: Là ngoài
nhóm chủ thể của định tội danh chính thức. Thông thường chủ thể của
định tội danh không chính thức là những người làm công tác nghiên
cứu thể hiện trong các công trình nghiên cứu khoa học, giáo trình,
sách giáo khoa, bài báo. Hoặc là luật gia, luật sư hay bất kỳ người nào
quan tâm đến việc nghiên cứu một vụ án hình sự cụ thể đưa ra những
bình luận về vụ án đó về phương diện định tội danh.
+ Về hậu quả pháp lý của định tội danh không chính thức: Định
tội danh không chính thức không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các bên có liên quan trong vụ án mà chỉ là sự thể hiện ý
kiến, quan điểm riêng của các chủ thể này như là sự thể hiện phương
pháp nhận thức PLHS.
1.3. Ý NGHĨA CỦA ĐỊNH TỘI DANH
Hoạt động định tội danh của các chủ thể có thể theo 2 xu
hướng: Định tội danh đúng hoặc định tội danh sai.
1.3.1. Đối với hoạt động định tội danh đúng
Định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm
hình sự và cá thể hoá hình phạt một cách công minh có căn cứ pháp
luật.
Định tội danh đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các
nguyên tắc tiến bộ được thừa nhận trong Nhà nước pháp quyền như:
nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình
đẳng trước pháp luật hình sự, nguyên tắc công minh nhân đạo và
nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm.
Định tội danh đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính
xác các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam, về thẩm
quyền điều tra, xét xử qua đó góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các
quyền và tự do dân chủ của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
1.3.2. Đối với hoạt động định tội danh sai
Định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như:
không đảm bảo được tính công minh có căn cứ đúng pháp luật, truy
cứu trách nhiệm hình sự người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm
phạm thô bạo danh dự nhân phẩm các quyền tự do dân chủ của công
dân là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận trong Nhà
Định tội danh sai làm giảm uy tín của cơ quan tư pháp, vi phạm
pháp chế XHCN, ảnh hưởng đến hiệu quả của đấu tranh phòng chống
tội phạm.
Nghị quyết 388/ UBTVQH ban hành ngày 17/03/2003 về bồi
thường oan trong tố tụng hình sự
Những vụ việc oan sai chủ yếu bắt nguồn từ việc đánh giá
chứng cứ phiến diện, thiếu thận trọng, nôn nóng khởi tố, bắt tạm
giam, suy diễn chủ quan.
CHƯƠNG 2.
CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA ĐỊNH TỘI DANH
2.1. VAI TRÒ CỦA BLHS ĐỐI VỚI ĐỊNH TỘI DANH
Các văn bản pháp luật - là cơ sở pháp lý - được sử dụng trong
hoạt động định tội danh đó là: BLHS, BLTTHS. Văn bản pháp luật
chuyên ngành như Luật giao thông đường bộ, luật phòng chống ma
tuý, Nghị định 11/CP ngày 03/03/99 quy định danh mục các mặt hàng
cấm. Nghị quyết của Quốc Hội, Nghị quyết của UBTVQH, Nghị
quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Thông tư liên
ngành của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Tư pháp. Công
văn của ngành của 3 cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong số các văn bản pháp luật trên thì BLHS là cơ sở pháp lý
trực tiếp cho toàn bộ quá trình định tội danh. Các văn bản pháp luật
còn lại chỉ với tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho quá
trình này. Bởi vì:
Thứ nhất: Nhà làm luật khi xây dựng các quy phạm pháp luật
hình sự (nghĩa là thực hiện chức năng tội phạm hoá) đã tìm xem các
dấu hiệu nào là đặc trưng cơ bản nhất, phổ biến nhất và hay được lặp
lại nhiều nhất trong những hành vi ấy, sau đó điển hình hoá và quy
định chúng trong BLHS với tính chất là các dấu hiệu trong CTTP.
Thứ hai: Điều luật về từng tội phạm cụ thể trong BLHS đã chứa
đựng đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng, điển hình bắt buộc không thể
thiếu được của một loại CTTP. Tất cả các dấu hiệu đó tập hợp thành
một hệ thống liên quan chặt chẽ với nhau trở thành khuôn mẫu pháp
lý (mô hình tội phạm), làm cơ sở cho người định tội danh so sánh, đối
chiếu với hành vi phạm tội đã xảy ra.
Thứ ba: BLHS liệt kê tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội
là tội phạm. Sự liệt kê đầy đủ này thể hiện một nguyên tắc đã được
quy định tại Điều 2 BLHS: "Chỉ người nào phạm một tội đã được quy
định trong BLHS mới phải chịu TNHS". Quy định này loại trừ khả
năng cho phép bất kỳ một cơ quan, một tổ chức, một cá nhân nào có
sự thay đổi theo hướng mở rộng hay thu hẹp mô hình CTTP đã được
quy định trong BLHS. Mà thẩm quyền này chỉ do một cơ quan duy
nhất là Quốc Hội thể hiện trong BLHS.
Thứ tư: Các văn bản pháp luật khác chứa đựng các quy phạm
pháp luật về nội dung chỉ là sự tiếp tục, cụ thể hoá các quy phạm đã
được quy định trong BLHS là mô hình CTTP.
2.2. CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐƯỢC ÁP
DỤNG KHI ĐỊNH TỘI DANH
Quá trình thực hiện tội phạm thể hiện như sau:
Ý định phạm tội =========> biểu lộ ý định phạm tội =========>
chuẩn bị phạm tội
phạm tội chưa đạt =========> tội phạm hoàn
thành=========>Che giấu tội phạm
Không tố giác TP
Chứa chấp
Tiêu thụ
Trong quá trình trên, TNHS chỉ đặt ra từ giai đoạn chuẩn bị
phạm tội. Để xác định TNHS của người phạm tội ở bất kỳ thời điểm
nào trong quá trình trên đều phải và chỉ phải dựa vào các quy phạm
pháp luật trong BLHS.
Các quy phạm pháp luật trong BLHS được chia làm 2 nhóm
căn cứ vào nội dung và tính chất của chúng, đó là các quy phạm pháp
luật phần chung và các quy phạm pháp luật phần các tội phạm cụ thể.
Hai nhóm quy phạm pháp luật này có mối liên quan hữu cơ, thống
nhất với nhau trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt.
Để áp dụng được các quy phạm pháp luật phần riêng phải dựa vào các
quy phạm pháp luật phần chung và ngược lại các quy phạm pháp luật
phần chung nếu không có các quy phạm pháp luật phần riêng thì
chúng hoàn toàn không có ý nghĩa. Chính vì vậy mà các dấu hiệu
trong mỗi CTTP được quy định trong cả phần chung và phần riêng.
Đối với các quy phạm pháp luật phần chung được chia thành
các nhóm như sau:
+ Những quy phạm quy định về chế định: như chế định đồng
phạm, chế định phòng vệ chính đáng, chế định về các giai đoạn thực
hiện tội phạm, chế định lỗi vv...
+ Những quy phạm quy định khái niệm: như khái niệm tội
phạm (Điều 8), khái niệm hình phạt (Điều 26).
+ Những quy phạm quy định về nguyên tắc: như Điều 3 quy
định về nguyên tắc xử lý
+ Những quy phạm quy định về điều kiện:như điều kiện áp
dụng các loại hình phạt.
Đối với các quy phạm phần các tội phạm cụ thể được chia
thành 2 nhóm:
+ Những quy phạm quy định về từng tội phạm cụ thể và hình
phạt áp dụng đối với từng tội phạm đó.
+ Những quy phạm quy định về khái niệm: như khái niệm tội
phạm chức vụ, khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
2.3. CƠ CẤU CỦA QPPLHS TRONG HOẠT ĐỘNG ĐỊNH
TỘI DANH
Cấu trúc của một quy phạm pháp luật thông thường có 3 bộ
phận. Đó là: Bộ phận giả định, quy định và bộ phận chế tài.
Đối với các QPPLHS thì bộ phận giả định được đề cập ở phần chung
của BLHS chỉ dấu hiệu lỗi, chủ thể, không gian, thời gian vv...Còn bộ
phận quy định và chế tài được đề cập trong phần riêng của BLHS.
Phần quy định của QPPLHS có đặc tính chung là mang tính cấm chỉ,
bao gồm 4 loại:
a. Quy định đơn giản: Là loại quy định chỉ nêu tên gọi của tội phạm
như: Điều 136, Điều 137, Điều 138, Điều 143, Điều 145 vv...
b. Quy định mô tả: Là loại quy định xác định một cách cụ thể các dấu
hiệu đặc trưng cơ bản của tội phạm ấy ngay trong phần quy định của
điều luật
c. Quy định viện dẫn: Là loại quy định muốn xác định nội dung phần
quy định của QPPL đó phải thông qua một điều lật khác trong BLHS
như: Điều 153, Điều 156, Điều 161, Điều 313, Điều 314. Điều 285.
d. Quy định mẫu: Là loại quy định muốn xác định nội dung của nó
phải thông qua sự xác định các QPPL của các ngành luật khác như:
Điều 202, các tội phạm ma tuý.
Về cấu trúc thì thông thường một điều luật phần các tội phạm cụ thể
đề cập đến một mô hình tội phạm, nhưng có một số điều luật đề cập
đến nhiều mô hình tội phạm với một chế tài chung. Ví dụ Điều 120,
Điều 194.
2.4. CẤU THÀNH TỘI PHẠM LÀ CĂN CỨ PHÁP LÝ CỦA ĐỊNH
TỘI DANH
Về nội dung của CTTP là các yếu tố cần và đủ cho việc định tội, nó là
các dấu hiệu điển hình nhất, đặc trưng nhất có tính chất lặp lặp lại
trong các hành vi phạm tội cùng loại nói lên bản chất của tội phạm ấy
và được nhà làm luật pháp điển hoá trong BLHS
Tính chất của CTTP là khuôn mẫu pháp lý của tội phạm và là cơ sở
pháp lý duy nhất cho việc ĐTD. Chỉ có trên cơ sở xác nhận sự phù
hợp đầy đủ các dấu hiệu của CTTP, thì mới có căn cứ để khẳng định
hành vi của một người bị luật hình sự cấm và bị trở thành người phạm
tội
Về vị trí pháp lý các dấu hiệu của CTTP được quy định ở phần chung
và phần các tội phạm cụ thể trong bộ luật hình sự nên trong khi định
tội chủ thể định tội danh phải có sự đánh giá một cách toàn diện các
QPPL phần riêng và các quy phạm pháp luật phần chung trong Luật
hình sự.
Cấu trúc của CTTP: có 04 yếu tố là khách thể, mặt khách quan, mặt
chủ quan và chủ thể.
Đặc điểm của CTTP thể hiện như sau:
+ CTTP là một hệ thống các dấu hiệu pháp lý khách quan và chủ quan
có tính chất bắt buộc.
+ Các dấu hiệu của CTTP nhất thiết phải được và chỉ được quy định
một cách đầy đủ trong BLHS.
+ CTTP là một khái niệm khoa học pháp lý có tính trìu tượng
+ CTTP là mô hình pháp lý của tội phạm.
Việc làm rõ các dấu hiệu của CTTP là một đảm bảo quan trọng đối
với việc định tội danh, đòi hỏi người định tội danh phải có trình độ lý
luận về pháp luật hình sự, có kiến thức chuyên môn, có kinh nghiệm
thực tiễn. Bên cạnh đó, đòi hỏi phải có các văn bản giải thích hướng
dẫn chi tiết nội dung của BLHS để đảm bảo việc áp dụng pháp luật
thống nhất. Ví dụ: cần phải ban hành văn bản để giải thích tình tiết
người già, về mức bồi thường thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ.
Chức năng của CTTP trong ĐTD
+ Chức năng nền tảng: Sở dĩ CTTP có chức năng này là vì, để xác
định hành vi của một người có bị coi là tội phạm hay không và để xác
định nó là tội nào chỉ có thể dựa vào CTTP.
+ Chức năng phân biệt: Trong phần quy định của quy phạm pháp luật
hình sự mô tả đầy đủ chính xác các dấu hiệu của tội phạm dựa vào đó
nó cho phép người định tội danh phân biệt tội này với tội khác, khung
hình phạt này với khung hình phạt khác. Từ đó có cơ sở để lựa chọn
loại tội và khung hình phạt thích hợp.
+ Chức năng đảm bảo: Thể hiện ở nguyên tắc một người chỉ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự khi hành vi của họ thoả mãn đầy đủ các dấu
hiệu trong CTTP và ngược lại.
Chương 3.
CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH ĐỊNH TỘI DANH
Việc xác định TNHS của người phạm tội bao gồm việc định tội danh,
định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh
là cơ sở tiền đề cho việc định khung hình phạt và quyết định hình
phạt.
Để thực hiện việc định tội danh được đúng đắn qua đó phát huy được
mặt tích cực trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
đòi hỏi người định tội danh phải xác định đầy đủ các tình tiết của vụ
án đã xẩy ra trong thực tế. Phải có sự hiểu biết chính xác, sâu sắc
PLHS. Qua đó xác định cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế của vụ án là
nội dung cơ bản của quá trình định tội danh. Từ đó, đảm bảo việc giải
quyết vụ án hình sự được chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự về phương diện định tội danh là
một quá trình hoạt động tư duy, phức tạp diễn ra theo 3 giai đoạn có