Đề tài Lý luận về định tội danh

Quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự(QPPLHS) diễn ra phức tạp và đa dạng, được thểhiện ở3 giai đoạn: Định tội danh, định khung hình phạt, và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là một giai đoạn quan trọng nhất trong ba giai đoạn trên của toàn bộquá trình áp dụng PLHS. Bởi vì, định tội danh được tiến hành thực hiện ởtất cảcác giai đoạn của cảquá trình tốtụng hình sựtừgiai đoạn khởi tố đến giai đoạn thi hành án. Trong khi đó bước quyết định hình phạt chỉ được tiến hành thực hiện ởgiai đoạn xét xử. Định tội danh là một trong những biện pháp đưa Bộluật hình sự (BLHS) vào đời sống xã hội, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, qua đó góp phần thực hiện đường lối chính sách hình sựcủa Đảng và Nhà nước ta. Định tội danh là sựxác nhận vềmặt pháp lý sựphù hợp (sự đồng nhất) giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong thực tếkhách quan với các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm (CTTP) tương ứng được quy định trong BLHS. Hay nói cách khác, Định tội danh là việc xác định một hành vi cụthể đã thực hiện thoảmãn đầy đủ các dấu hiệu của CTTP của tội nào trong sốcác tội phạm đã được quy định trong BLHS. Vềphương pháp định tội danh: Chủyếu sửdụng phương pháp tổng hợp, phân tích, quy nạp, diễn dịch và quan trọng hơn cảlà phương pháp loại trừ.

pdf39 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6120 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lý luận về định tội danh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÝ LUẬN ĐỊNH TỘI DANH CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM ĐỊNH TỘI DANH 1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊNH TỘI DANH Quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự (QPPLHS) diễn ra phức tạp và đa dạng, được thể hiện ở 3 giai đoạn: Định tội danh, định khung hình phạt, và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là một giai đoạn quan trọng nhất trong ba giai đoạn trên của toàn bộ quá trình áp dụng PLHS. Bởi vì, định tội danh được tiến hành thực hiện ở tất cả các giai đoạn của cả quá trình tố tụng hình sự từ giai đoạn khởi tố đến giai đoạn thi hành án. Trong khi đó bước quyết định hình phạt chỉ được tiến hành thực hiện ở giai đoạn xét xử. Định tội danh là một trong những biện pháp đưa Bộ luật hình sự (BLHS) vào đời sống xã hội, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, qua đó góp phần thực hiện đường lối chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Định tội danh là sự xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp (sự đồng nhất) giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong thực tế khách quan với các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm (CTTP) tương ứng được quy định trong BLHS. Hay nói cách khác, Định tội danh là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của CTTP của tội nào trong số các tội phạm đã được quy định trong BLHS. Về phương pháp định tội danh: Chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, quy nạp, diễn dịch và quan trọng hơn cả là phương pháp loại trừ. Từ các vấn đề nêu trên cho thấy định tội danh có 4 đặc điểm như sau: a. Định tội danh là một quá trình nhận thức có tính logic giữa lý luận và thực tiễn. Thể hiện dưới 2 khía cạnh: xác định xem hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện có phù hợp với các dấu hiệu của CTTP cụ thể trong BLHS và đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi đã thực hiện trong thực tế. b. Quá trình hoạt động định tội danh phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm pháp luật của luật nội dung là BLHS cũng như các quy phạm pháp luật của luật hình thức là Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). c. Định tội danh là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Toà án) để cụ thể hoá các QPPLHS trìu tượng vào đời sống thực tế. Trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết của hành vi phạm tội đã thực hiện và sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn nội dung của các QPPLHS. d. Định tội danh với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự được tiến hành theo 04 bước sau: Bước1: Thiết lập, xem xét, đánh giá đúng các tình tiết của vụ án đã xảy ra trên thực tế khách quan. Đối với bước này, đòi hỏi người định tội danh phải đánh giá các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, vô tư, không định kiến, không suy diễn. Phải dựa vào các chứng cứ đã thu thập được và đánh giá theo quy định của BLTTHS. Mỗi một tình tiết trong vụ án bước đầu đánh giá chúng một cách độc lập để thấy được sự thể hiện tính chất của nó là loại hành vi nào. Sau đó, chính tình tiết đó lại tiếp tục đặt trong mối quan hệ với các tình tiết khác trong vụ án, thì kết luận về tính chất của tình tiiết này mới là sự thể hiện về bản chất của nó trong cả quá trình của vụ án. Đánh giá mỗi tình tiết của vụ án, phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể, trong tổng thể, biện chứng của cả quá trình phản ánh đúng diễn biến của vụ án đã xẩy ra. Bởi vì, cùng một tình tiết, nhưng đặt trong mỗi hoàn cảnh khác nhau thì chúng khác nhau về bản chất. Kết luận về từng tình tiết độc lập, không thể phản ánh đúng về bản chất của tình tiết đó trong toàn bộ diễn biến của vụ án. Bước 2: Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm pháp luật hình sự phản ánh các dấu hiệu của CTTP về tội danh có hướng lựa chọn. Các dấu hiệu trong CTTP được quy định trong BLHS mang tính trìu tượng chỉ nêu một cách khái quát những nét đặc trưng mang tính phổ biến để điều chỉnh hiện tượng thực tế muôn hình muôn vẻ. Đòi hỏi phải có quá trình tư duy để nhận thức sâu rộng, đúng đắn về nội dung của các dấu hiệu trong CTTP. Rất nhiều các QPPLHS chưa xác định rõ ràng ranh giới giữa chúng với nhau. Ví dụ: Điều 93 với Điều 95 với Điều 96 và với Điều 97. Hoặc là hành vi khác trong tội cướp với hành vi khác trong tội cưỡng đoạt tài sản. Hoặc việc quyết định hình phạt trong trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết tăng nặng đồng thời có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Hoặc như thế nào là nguy hiểm đáng kể và nguy hiểm chưa đáng kể. Hoặc ranh giới giữa Phòng vệ chính đáng với vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Chưa kể còn một số quy định trong BLHS thể hiện rõ sự bất cập của nó như: chính sách hình sự đối với người phạm tội chưa đủ 16 tuổi. Tình tiết phạm tội nhiều lần của tội cố ý gây thương tích. Hoặc trộm cắp tài sản nhiều lần, mỗi lần giá trị tài sản dưới 500.000đ. Trong các trường hợp này đòi hỏi người định tội danh phải tự đánh giá trên căn cứ khoa học và căn cứ thực tế sao cho có sức thuyết phục. Hay nói cách khác, đòi hỏi người định tội danh phải có trình độ pháp lý hình sự. Bước 3: So sánh đối chiếu hai quá trình trên. Bước 4: Ra văn bản áp dụng pháp luật chính là bản án và các quyết định có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục về 3 bước trên để xác định tội danh cần áp dụng đối với trường hợp phạm tội của người đó. Qua các đặc điểm của định tội danh đã phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm định tội danh như sau: Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính lô gích, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS, PLTTHS. Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được phản ánh các tình tiết thực tế của vụ án đã xảy ra để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp của chúng với các dấu hiệu của CTTP cụ thể tương ứng do BLHS quy định. Có thể thấy được đặc điểm và các yêu cầu của hoạt động định tôi danh thông qua việc đánh giá một tình huống cụ thể sau: Tình huống: Do mâu thuẫn trong viẹc tranh chấp đất đai nên Đỗ Văn Tuyên, Đỗ Văn Cần nhiều lần rượt, đuổi đánh chém Nguyễn Văn Hùng. Thấy cha, chú có hành vi như thế nên Đõ Trương Tín là con cũng trực tiếp đánh chém Nguyễn Văn Hùng. Biết Hùng làm nghề hớt tóc ở thôn 2, xã Nghĩa Dũng, Thị xã Quảng Ngãi, nên Tín (sinh năm 1989) đón đường để đánh. Sáng 28/05/2002, Hùng đi làm bằng xe máy, khi đến gần ngã ba giáp ranh thôn 3 và thôn 4 thuộc xã Nghĩa Dũng thì Tín cầm một con dao dài khoảng 30 cm và đá đứng chặn đường để đánh Hùng, Hùng sợ nên quay xe về nhà để lánh mặt. Khoảng 10 phút sau, Hùng tiếp tục điều khiển xe máy nêu trên đến tiệm hớt tóc, khi đến đoạn đường trên, Tín vẫn cầm daovaf đá đứng chặn đường. Nhìn thấy Hùng, ngay lập tức đuổi theo để đánh, Hùng bỏ chạy vào nhà một người dân trước chợ Nghĩa Dũng, Tín tiếp tục đuổi theo và dùng đá chọi Hùng và Hùng cũng nhặt đá chọi lại Tín, sau đó được mọi người can ngăn nên Tín đi về phía Tây, còn Hùng điều khiển xe máy về nhà ở thôn 5, xã Nghĩa Dũng, thị xã Quảng Ngãi.Về đến nhà Hùng nhìn thấy cây rựa dài 77cm để ở sân nên cầm lấy mang theo và tiếp tục điều khiển xe máy đi làm. Khi đến đoạn gần ngã ba nêu treenthif Tín vẫn cầm dao và đá đứng chặn đường, nhìn thấy Hùng, Tín dùng đá ném Hùng và Hùng dùng đá chọi lại Tín. Sau đó Tín cầm dao xông đến chém Hùng và Hùng cầm rựa xông vào Tín, khi đến gần nhau Tín đưa dao lên chém ngang cổ Hùng và Hùng cầm rựa chém lại trúng vào tay cầm dao của Tín gây thương tích 33%. 1.2. PHÂN LOẠI ĐỊNH TỘI DANH Căn cứ vào chủ thể thực hiện việc định tội danh, khoa học luật hình sự chia định tội danh thành 2 nhóm: 1.2.1. Định tội danh chính thức Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước uỷ quyền thực hiện. Định tội danh chính thức có các đặc điểm sau: + Về chủ thể của định tội danh chính thức: Chỉ có thể là người tiến hành tố tụng. Bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. + Về hậu quả pháp lý của định tội danh chính thức: Những đánh giá, những kết luận của chủ thể của định tội danh chính thức là cơ sở pháp lý để khởi tố vụ án, để áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Là cơ sở để ra bản kết luận điều tra, bản cáo trạng và ra bản án. 1.2.2. Định tội danh không chính thức Định tội danh không chính thức là sự đánh giá không phải về mặt Nhà nước tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể. Định tội danh không chính thức có các đặc điểm sau: + Về chủ thể của định tội danh không chính thức: Là ngoài nhóm chủ thể của định tội danh chính thức. Thông thường chủ thể của định tội danh không chính thức là những người làm công tác nghiên cứu thể hiện trong các công trình nghiên cứu khoa học, giáo trình, sách giáo khoa, bài báo. Hoặc là luật gia, luật sư hay bất kỳ người nào quan tâm đến việc nghiên cứu một vụ án hình sự cụ thể đưa ra những bình luận về vụ án đó về phương diện định tội danh. + Về hậu quả pháp lý của định tội danh không chính thức: Định tội danh không chính thức không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên có liên quan trong vụ án mà chỉ là sự thể hiện ý kiến, quan điểm riêng của các chủ thể này như là sự thể hiện phương pháp nhận thức PLHS. 1.3. Ý NGHĨA CỦA ĐỊNH TỘI DANH Hoạt động định tội danh của các chủ thể có thể theo 2 xu hướng: Định tội danh đúng hoặc định tội danh sai. 1.3.1. Đối với hoạt động định tội danh đúng Định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt một cách công minh có căn cứ pháp luật. Định tội danh đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc tiến bộ được thừa nhận trong Nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình đẳng trước pháp luật hình sự, nguyên tắc công minh nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm. Định tội danh đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam, về thẩm quyền điều tra, xét xử qua đó góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền và tự do dân chủ của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự. 1.3.2. Đối với hoạt động định tội danh sai Định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như: không đảm bảo được tính công minh có căn cứ đúng pháp luật, truy cứu trách nhiệm hình sự người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm các quyền tự do dân chủ của công dân là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận trong Nhà Định tội danh sai làm giảm uy tín của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế XHCN, ảnh hưởng đến hiệu quả của đấu tranh phòng chống tội phạm. Nghị quyết 388/ UBTVQH ban hành ngày 17/03/2003 về bồi thường oan trong tố tụng hình sự Những vụ việc oan sai chủ yếu bắt nguồn từ việc đánh giá chứng cứ phiến diện, thiếu thận trọng, nôn nóng khởi tố, bắt tạm giam, suy diễn chủ quan. CHƯƠNG 2. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA ĐỊNH TỘI DANH 2.1. VAI TRÒ CỦA BLHS ĐỐI VỚI ĐỊNH TỘI DANH Các văn bản pháp luật - là cơ sở pháp lý - được sử dụng trong hoạt động định tội danh đó là: BLHS, BLTTHS. Văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật giao thông đường bộ, luật phòng chống ma tuý, Nghị định 11/CP ngày 03/03/99 quy định danh mục các mặt hàng cấm. Nghị quyết của Quốc Hội, Nghị quyết của UBTVQH, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Thông tư liên ngành của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Tư pháp. Công văn của ngành của 3 cơ quan tiến hành tố tụng. Trong số các văn bản pháp luật trên thì BLHS là cơ sở pháp lý trực tiếp cho toàn bộ quá trình định tội danh. Các văn bản pháp luật còn lại chỉ với tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho quá trình này. Bởi vì: Thứ nhất: Nhà làm luật khi xây dựng các quy phạm pháp luật hình sự (nghĩa là thực hiện chức năng tội phạm hoá) đã tìm xem các dấu hiệu nào là đặc trưng cơ bản nhất, phổ biến nhất và hay được lặp lại nhiều nhất trong những hành vi ấy, sau đó điển hình hoá và quy định chúng trong BLHS với tính chất là các dấu hiệu trong CTTP. Thứ hai: Điều luật về từng tội phạm cụ thể trong BLHS đã chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng, điển hình bắt buộc không thể thiếu được của một loại CTTP. Tất cả các dấu hiệu đó tập hợp thành một hệ thống liên quan chặt chẽ với nhau trở thành khuôn mẫu pháp lý (mô hình tội phạm), làm cơ sở cho người định tội danh so sánh, đối chiếu với hành vi phạm tội đã xảy ra. Thứ ba: BLHS liệt kê tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. Sự liệt kê đầy đủ này thể hiện một nguyên tắc đã được quy định tại Điều 2 BLHS: "Chỉ người nào phạm một tội đã được quy định trong BLHS mới phải chịu TNHS". Quy định này loại trừ khả năng cho phép bất kỳ một cơ quan, một tổ chức, một cá nhân nào có sự thay đổi theo hướng mở rộng hay thu hẹp mô hình CTTP đã được quy định trong BLHS. Mà thẩm quyền này chỉ do một cơ quan duy nhất là Quốc Hội thể hiện trong BLHS. Thứ tư: Các văn bản pháp luật khác chứa đựng các quy phạm pháp luật về nội dung chỉ là sự tiếp tục, cụ thể hoá các quy phạm đã được quy định trong BLHS là mô hình CTTP. 2.2. CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐƯỢC ÁP DỤNG KHI ĐỊNH TỘI DANH Quá trình thực hiện tội phạm thể hiện như sau: Ý định phạm tội =========> biểu lộ ý định phạm tội =========> chuẩn bị phạm tội phạm tội chưa đạt =========> tội phạm hoàn thành=========>Che giấu tội phạm Không tố giác TP Chứa chấp Tiêu thụ Trong quá trình trên, TNHS chỉ đặt ra từ giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Để xác định TNHS của người phạm tội ở bất kỳ thời điểm nào trong quá trình trên đều phải và chỉ phải dựa vào các quy phạm pháp luật trong BLHS. Các quy phạm pháp luật trong BLHS được chia làm 2 nhóm căn cứ vào nội dung và tính chất của chúng, đó là các quy phạm pháp luật phần chung và các quy phạm pháp luật phần các tội phạm cụ thể. Hai nhóm quy phạm pháp luật này có mối liên quan hữu cơ, thống nhất với nhau trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt. Để áp dụng được các quy phạm pháp luật phần riêng phải dựa vào các quy phạm pháp luật phần chung và ngược lại các quy phạm pháp luật phần chung nếu không có các quy phạm pháp luật phần riêng thì chúng hoàn toàn không có ý nghĩa. Chính vì vậy mà các dấu hiệu trong mỗi CTTP được quy định trong cả phần chung và phần riêng. Đối với các quy phạm pháp luật phần chung được chia thành các nhóm như sau: + Những quy phạm quy định về chế định: như chế định đồng phạm, chế định phòng vệ chính đáng, chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm, chế định lỗi vv... + Những quy phạm quy định khái niệm: như khái niệm tội phạm (Điều 8), khái niệm hình phạt (Điều 26). + Những quy phạm quy định về nguyên tắc: như Điều 3 quy định về nguyên tắc xử lý + Những quy phạm quy định về điều kiện:như điều kiện áp dụng các loại hình phạt. Đối với các quy phạm phần các tội phạm cụ thể được chia thành 2 nhóm: + Những quy phạm quy định về từng tội phạm cụ thể và hình phạt áp dụng đối với từng tội phạm đó. + Những quy phạm quy định về khái niệm: như khái niệm tội phạm chức vụ, khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. 2.3. CƠ CẤU CỦA QPPLHS TRONG HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH Cấu trúc của một quy phạm pháp luật thông thường có 3 bộ phận. Đó là: Bộ phận giả định, quy định và bộ phận chế tài. Đối với các QPPLHS thì bộ phận giả định được đề cập ở phần chung của BLHS chỉ dấu hiệu lỗi, chủ thể, không gian, thời gian vv...Còn bộ phận quy định và chế tài được đề cập trong phần riêng của BLHS. Phần quy định của QPPLHS có đặc tính chung là mang tính cấm chỉ, bao gồm 4 loại: a. Quy định đơn giản: Là loại quy định chỉ nêu tên gọi của tội phạm như: Điều 136, Điều 137, Điều 138, Điều 143, Điều 145 vv... b. Quy định mô tả: Là loại quy định xác định một cách cụ thể các dấu hiệu đặc trưng cơ bản của tội phạm ấy ngay trong phần quy định của điều luật c. Quy định viện dẫn: Là loại quy định muốn xác định nội dung phần quy định của QPPL đó phải thông qua một điều lật khác trong BLHS như: Điều 153, Điều 156, Điều 161, Điều 313, Điều 314. Điều 285. d. Quy định mẫu: Là loại quy định muốn xác định nội dung của nó phải thông qua sự xác định các QPPL của các ngành luật khác như: Điều 202, các tội phạm ma tuý. Về cấu trúc thì thông thường một điều luật phần các tội phạm cụ thể đề cập đến một mô hình tội phạm, nhưng có một số điều luật đề cập đến nhiều mô hình tội phạm với một chế tài chung. Ví dụ Điều 120, Điều 194. 2.4. CẤU THÀNH TỘI PHẠM LÀ CĂN CỨ PHÁP LÝ CỦA ĐỊNH TỘI DANH Về nội dung của CTTP là các yếu tố cần và đủ cho việc định tội, nó là các dấu hiệu điển hình nhất, đặc trưng nhất có tính chất lặp lặp lại trong các hành vi phạm tội cùng loại nói lên bản chất của tội phạm ấy và được nhà làm luật pháp điển hoá trong BLHS Tính chất của CTTP là khuôn mẫu pháp lý của tội phạm và là cơ sở pháp lý duy nhất cho việc ĐTD. Chỉ có trên cơ sở xác nhận sự phù hợp đầy đủ các dấu hiệu của CTTP, thì mới có căn cứ để khẳng định hành vi của một người bị luật hình sự cấm và bị trở thành người phạm tội Về vị trí pháp lý các dấu hiệu của CTTP được quy định ở phần chung và phần các tội phạm cụ thể trong bộ luật hình sự nên trong khi định tội chủ thể định tội danh phải có sự đánh giá một cách toàn diện các QPPL phần riêng và các quy phạm pháp luật phần chung trong Luật hình sự. Cấu trúc của CTTP: có 04 yếu tố là khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể. Đặc điểm của CTTP thể hiện như sau: + CTTP là một hệ thống các dấu hiệu pháp lý khách quan và chủ quan có tính chất bắt buộc. + Các dấu hiệu của CTTP nhất thiết phải được và chỉ được quy định một cách đầy đủ trong BLHS. + CTTP là một khái niệm khoa học pháp lý có tính trìu tượng + CTTP là mô hình pháp lý của tội phạm. Việc làm rõ các dấu hiệu của CTTP là một đảm bảo quan trọng đối với việc định tội danh, đòi hỏi người định tội danh phải có trình độ lý luận về pháp luật hình sự, có kiến thức chuyên môn, có kinh nghiệm thực tiễn. Bên cạnh đó, đòi hỏi phải có các văn bản giải thích hướng dẫn chi tiết nội dung của BLHS để đảm bảo việc áp dụng pháp luật thống nhất. Ví dụ: cần phải ban hành văn bản để giải thích tình tiết người già, về mức bồi thường thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ. Chức năng của CTTP trong ĐTD + Chức năng nền tảng: Sở dĩ CTTP có chức năng này là vì, để xác định hành vi của một người có bị coi là tội phạm hay không và để xác định nó là tội nào chỉ có thể dựa vào CTTP. + Chức năng phân biệt: Trong phần quy định của quy phạm pháp luật hình sự mô tả đầy đủ chính xác các dấu hiệu của tội phạm dựa vào đó nó cho phép người định tội danh phân biệt tội này với tội khác, khung hình phạt này với khung hình phạt khác. Từ đó có cơ sở để lựa chọn loại tội và khung hình phạt thích hợp. + Chức năng đảm bảo: Thể hiện ở nguyên tắc một người chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi hành vi của họ thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu trong CTTP và ngược lại. Chương 3. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH ĐỊNH TỘI DANH Việc xác định TNHS của người phạm tội bao gồm việc định tội danh, định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là cơ sở tiền đề cho việc định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Để thực hiện việc định tội danh được đúng đắn qua đó phát huy được mặt tích cực trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, đòi hỏi người định tội danh phải xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án đã xẩy ra trong thực tế. Phải có sự hiểu biết chính xác, sâu sắc PLHS. Qua đó xác định cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế của vụ án là nội dung cơ bản của quá trình định tội danh. Từ đó, đảm bảo việc giải quyết vụ án hình sự được chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án hình sự về phương diện định tội danh là một quá trình hoạt động tư duy, phức tạp diễn ra theo 3 giai đoạn có
Luận văn liên quan