Đề tài Lý luận về thẩm định, thẩm tra tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật

Ban hành văn bản qui phạm pháp luật là một trong những hoạt động quan trọng và thường xuyên của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2008 đã qui định khá chặt chẽ về trình tự, thủ tục ban hành VBQPPL nhằm bảo đảm cho VBQPPL sau khi được ban hành có chất lượng cao nhất. Một trong những thủ tục bắt buộc của qui trình ban hành VBQPPL là thẩm định, thẩm tra về khía cạnh pháp lý của dự thảo VBQPPL trước khi được chủ thể có thẩm quyền thông qua, trong đó thẩm định, thẩm tra tính hợp Hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo VBQPPL được coi là nội dung quan trọng và trọng tâm của hoạt động này.

docx10 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2132 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lý luận về thẩm định, thẩm tra tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lý luận về thẩm định, thẩm tra tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật Cao Kim Oanh Bộ môn Xây dựng văn bản pháp luật Đại học Luật Hà Nội Ban hành văn bản qui phạm pháp luật là một trong những hoạt động quan trọng và thường xuyên của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 2008 đã qui định khá chặt chẽ về trình tự, thủ tục ban hành VBQPPL nhằm bảo đảm cho VBQPPL sau khi được ban hành có chất lượng cao nhất. Một trong những thủ tục bắt buộc của qui trình ban hành VBQPPL là thẩm định, thẩm tra về khía cạnh pháp lý của dự thảo VBQPPL trước khi được chủ thể có thẩm quyền thông qua, trong đó thẩm định, thẩm tra tính hợp Hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo VBQPPL được coi là nội dung quan trọng và trọng tâm của hoạt động này. Về tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật, đây là nhân tố hàng đầu đảm bảo sự thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật. Tính hợp hiến đòi hỏi tất cả các quy phạm pháp luật thuộc bất kỳ một ngành luật nào trong hệ thống pháp luật đều phải phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất, thứ bậc, hiệu lực pháp lý của văn bản pháp luật, tạo thành một hệ thống thống nhất theo quy định của Hiến pháp. Tính hợp hiến không chỉ được xác định trên cơ sở những quy định cụ thể mà còn trên cơ sở tinh thần, tư tưởng, nguyên tắc của Hiến pháp Tại điều 146 Hiến pháp 1992 có quy định “ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của nhà nước và có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp”. Hiến pháp đạo luật cơ bản của nhà nước nên ngôn ngữ của hiến pháp thường cô đọng súc tích, mang tính định hướng và là nền tảng của các đạo luật của Quốc hội thể hiện chi tiết như quy định thiết lập tổ chức và hoạt động của các cơ quan công quyền, các thiết chế chính trị; quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân… Để đảm bảo nguyên tắc Hiến pháp là luật cơ bản, có tính pháp lý cao nhất thì hệ thống văn bản pháp luật, đặc biệt văn bản quy phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền ban hành phải phù hợp với Hiến pháp. Tính hợp hiến được thể hiện thông qua hai điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất, các văn bản quy phạm pháp luật không được trái với các quy định cụ thể của Hiến pháp. Để đảm bảo văn bản quy phạm pháp luật không trái với các quy định của Hiến pháp thì cơ quan soạn thảo văn bản phải nắm rõ và hiểu đúng các quy định cụ thể của Hiến pháp liên quan tới lĩnh vực điều chỉnh của văn bản đang soạn thảo. Ví dụ, nguyên tắc “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” được quy định tại Điều 52 Hiến pháp 1992 có giá trị thi hành trực tiếp và bất kỳ văn bản pháp luật nào dưới Hiến pháp đều phải đảm bảo rằng không có sự phân biệt đối xử đối với công dân trước pháp luật. Như vậy, khi Quốc hội và các chủ thể có thẩm quyền khác ban hành các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác cần phải cân nhắc là những quy định trong dự thảo có hạn chế quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật hay không để xác định tính hợp hiến của các quy định trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Hơn nữa, khi kiểm tra tính hợp hiến của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thì cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm định cần đặc biệt lưu ý đến các quyền cơ bản của công dân mà Hiến pháp đã quy định để đảm bảo rằng các quyền đó không bị hạn chế. Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với tinh thần của Hiến pháp. Đây là vấn đề khó xác định khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thực tế ban hành văn bản chỉ cần không trái với các quy định của Hiến pháp thì chưa đủ mà phải xác định mục đích và những nguyên tắc cơ bản của văn bản quy phạm pháp luật, hay nói cách khác chúng đã xác định phần “hồn” hoặc “tinh thần” của Hiến pháp. Trở lại vấn đề văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với tinh thần của Hiến pháp, nếu Hiến pháp quy định “ không được phân biệt đối xử” thì các văn bản pháp luật, bất luận quy định dưới hình thức gì, nếu có tính chất “bất bình đẳng” giữa các công dân trước pháp luật thì đã không thể coi là không phù hợp với tinh thần của Hiến pháp. Tuy nhiên, không có tinh thần của Hiến pháp một cách chung chung mà tinh thần Hiến pháp được thể hiện từ chính các quy phạm của Hiến pháp. Về tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật . Tính hợp pháp là “đúng với pháp luật, không trái với pháp luật” thuật ngữ này được sử dụng cùng với thuật ngữ “tính hợp hiến”. Theo nghĩa như vậy, để bảo đảm tính hợp pháp, văn bản quy phạm pháp luật phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục Luật định. Bên cạnh đó, hình thức của văn bản phải phù hợp với quy định về kỹ thuật văn bản. Tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật là một trong những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, quyết định sự tồn tại và hiệu lực pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên tuỳ vào từng góc độ pháp lý khác nhau mà biểu hiện của tính hợp pháp có thể khác nhau. Thứ nhất: Văn bản quy phạm pháp luật ban hành đúng thẩm quyền pháp luật quy định Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là giới hạn quyền lực do pháp luật quy định cho chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật để giải quyết những vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật bao gồm thẩm quyền hình thức và thẩm quyền nội dung. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đúng thẩm quyền hình thức: Thẩm quyền hình được hiểu là các chủ thể trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật đúng tên gọi do pháp luật quy định. Theo quy định này, mỗi cá nhân, cơ quan trong thẩm quyền của mình chỉ được ban hành một hoặc một số hình thức văn bản quy phạm pháp luật do luật quy định. Đây chính là quy định nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời đảm bảo duy trì tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật về mặt hình thức. Thẩm quyền về hình thức của các chủ thể trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong Điều 2, Điều 21 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và khoản 2 Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004, như: Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; nghị định của Chính phủ; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Tổng Kiểm toán Nhà nước; nghị quyết của HĐND, quyết định, chỉ thị của UBND....Theo các quy định trên, có thể thấy số lượng các chủ thể được pháp luật xác định tên loại văn bản được ban hành theo thẩm quyền là tương đối rộng. Điều này có ý nghĩa buộc các chủ thể phải tuân thủ và đảm bảo cho văn bản ban hành được hợp pháp về mặt hình thức. Một khi các chủ thể vi phạm yêu cầu này cũng có nghĩa là văn bản ban hành không hợp pháp về hình thức theo quy định của pháp luật. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đúng thẩm quyền về nội dung: Thẩm quyền nội dung là giới hạn quyền lực của các chủ thể trong quá trình giải quyết công việc do pháp luật quy định. Về thực chất, đó là “giới hạn của việc sử dụng quyền lực nhà nước mà pháp luật thực định đã đặt ra đối với từng cơ quan trong bộ máy nhà nước về mỗi loại công việc nhất định”. Trên thực tế, thẩm quyền này được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật như: Hiến pháp, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004, các đạo luật về tổ chức (Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân…). Ngoài ra, thẩm quyền của các chủ thể được quy định trong các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước… Thứ hai: Văn bản quy phạm pháp luật ban hành phải đảm bảo hợp pháp về nội dung Hệ thống pháp luật Việt Nam là hệ thống tập trung, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Để đảm bảo tính thống nhất thì văn bản quy phạm pháp luật phải được ban hành theo trật tự pháp lý từ trên xuống dưới, văn bản quy phạm pháp luật cấp dưới phải đáp ứng nhu cầu thực tế và phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật cấp trên. Nói cách khác, văn bản đó phải đảm bảo tính hợp pháp. Muốn như vậy, việc trước tiên khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật là phải xác định căn cứ pháp lý để ban hành. Trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ sở pháp lý là những chuẩn mực pháp luật được quy định trong các văn bản liên quan mà theo đó văn bản được ban hành hợp pháp. Thông thường, văn bản đóng vai trò là cơ sở pháp lý đảm bảo tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật là văn bản quy định trực tiếp về thẩm quyền của chủ thể ban hành văn bản, các văn bản chứa đựng quy định có liên quan trực tiếp đến nội dung văn bản quy phạm pháp luật đang soạn thảo. Hơn nữa, văn bản được xác định là cơ sở pháp lý phải là văn bản đang có hiệu lực pháp lý tại thời điểm ban hành văn bản. Hiện nay, thẩm quyền của các chủ thể trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại nhiều văn bản khác nhau. Muốn xác lập một cách chính xác cơ sở pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật, trước hết cần xác định nội dung công việc đó thuộc phạm vi thẩm quyền giải quyết của cơ quan nào. Để làm được điều này, chủ thể ban hành văn bản phải hiểu được các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền của các cơ quan nhà nước nói chung và của cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói riêng. Mặt khác để đảm bảo tính hợp pháp về nội dung của văn bản quy phạm pháp luật ngoài yêu cầu phải đúng về căn cứ pháp lý văn bản quy phạm pháp luật còn phải có nội dung phù hợp với quy định của pháp luật. Khi xem xét tính hợp pháp về nội dung của văn bản quy phạm pháp luật, bên cạnh việc tôn trọng các quy định của hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm tuân thủ “thứ bậc hiệu lực của văn bản trong hệ thống pháp luật. Trước hết, nội dung hợp pháp thể hiện ở việc “Văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với cơ quan nhà nước cấp trên”. Theo đó, yêu cầu này còn được đặt ra theo nguyên tắc văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí thấp phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao”. Chẳng hạn, để đánh giá tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ cần xem xét và đặt văn bản đó trong mối liên hệ với các văn bản quy phạm pháp luật khác đã ban hành trước đó của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và một số văn bản khác có liên quan. Trong trường hợp ngược lại, nếu nội dung văn bản quy phạm pháp luật ban hành không phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn thì văn bản đó không phát sinh hiệu lực pháp lý trên thực tế và không chứa đựng nội dung hợp pháp. Về phương diện khác, tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật còn được đánh giá theo nguyên tắc “văn bản của địa phương ban hành phải phù hợp và thống nhất với văn bản do trung ương ban hành”. Nguyên tắc này phản ánh sự phân chia quyền lực trong hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, đồng thời tạo ra sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Như vậy, trong công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương một đòi hỏi đặt ra là phải đảm bảo tính hợp pháp trong sự phù hợp với các văn bản khác do cơ quan trung ương ban hành. Chẳng hạn, khi đánh giá nội dung hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật do Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành, cần xem xét nội dung văn bản đó trong mối liên hệ với các văn bản đã ban hành của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ…để đảm bảo sự phù hợp và thống nhất về các vấn đề nội dung và hiệu lực pháp lý của văn bản. Ngoài những biểu hiện nêu trên về sự phù hợp với các quy định của pháp luật, tính hợp pháp còn được phản ánh ở việc các chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo sự hài hoà thống nhất về nội dung giữa các văn bản có cùng thứ bậc hiệu lực pháp lý. Đây cũng là một đòi hỏi đảm bảo cho văn bản ban hành hợp pháp khi hình thức văn bản do cùng một chủ thể ban hành nhưng nội dung chứa đựng các vấn đề điều chỉnh khác nhau. Đảm bảo được yêu cầu này cũng có nghĩa tránh được những trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật cùng thứ bậc hiệu lực pháp lý. Một điểm quan trọng nữa để đảm bảo tính hợp pháp về nội dung cho văn bản quy phạm pháp luật là phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Theo đó, các chủ thể khi ban hành văn bản pháp luật nói chung và văn bản quy phạm pháp luật nói riêng phải tìm hiểu, nghiên cứu các điều ước quốc tế cho phù hợp. Như vậy, các quy định về “hiệu lực pháp lí” đòi hỏi mỗi văn bản quy phạm pháp luật, khi được ban hành phải căn cứ vào các văn bản khác của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền và có thể coi đây là cơ sở xác định giá trị pháp lý của văn bản. Thứ ba: VBQPPL phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thủ tục xây dựng, ban hành. Văn bản quy phạm pháp luật là nhóm văn bản có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Do vậy, yêu cầu đảm bảo sự chặt chẽ, thống nhất trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là rất cần thiết. Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 thì quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật gồm: Lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; soạn thảo; thẩm định; lấy ý kiến đóng góp; thẩm tra; xem xét, thông qua; công bố văn bản quy phạm pháp luật. Việc tuân thủ những quy định về trình tự, thủ tục trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền theo luật định vừa là điều kiện để đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, một nguyên tắc cơ bản trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, vừa góp phần nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật được soạn thảo. Thứ tư: văn bản quy phạm pháp luật ban hành tuân theo những quy định của pháp luật về thể thức, kỹ thuật trình bày. Trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, những quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày đóng vai trò khá quan trọng. Thể thức là tập hợp các thành phần cấu thành văn bản, bao gồm những thành phần chung áp dụng đối với mỗi loại văn bản và các thành phần bổ sung trong các trường hợp cụ thể. Hiện nay, thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP, ngày 06/05/2005 của Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ hướng dẫn thể thức và kĩ thuật trình bày văn bản; Quyết định số 20/2002/QĐ-KHCN, ngày 31/12/2002 của Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Tiêu chuẩn Việt Nam số 5700 năm 2002 quy định kết cấu hình thức của văn bản trong đó có văn bản quy phạm pháp luật; Nghị quyết số 1139/2007/UBTVQH 11, ngày 03/07/2007 của Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành quy chế về kỹ thuật trình bày dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và UBTVQH. Theo đó, những quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản là tất cả những quy định liên quan đến: quốc hiệu, tên cơ quan ban hành văn bản, số, ký hiệu văn bản, tên loại văn bản, trích yếu nội dung… Để văn bản quy phạm pháp luật ban hành đảm bảo tính hợp pháp, chủ thể có thẩm quyền khi ban hành văn bản cần chú ý cách thức trình bày theo quy định của pháp luật. Đồng thời, văn bản còn phải được trình bày theo bố cục, kết cấu phù hợp với hình thức và nội dung văn bản cần ban hành. Về tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật. Đây là phạm trù có liên hệ mật thiết với hai phạm trù được trình bày trên (là tính hợp hiến và tính hợp pháp), bởi lẽ, khi văn bản quy phạm pháp luật đã bảo đảm tính hợp hiến và hợp pháp thì giữa chúng đã đạt được sự thống nhất nhất định, cả về nội dung và hình thức. “Thống nhất là hợp lại thành một khối, làm cho phù hợp với nhau, không mâu thuẫn nhau”. Theo đó, tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là cùng một lĩnh vực hay đối tượng điều chỉnh thì các quy phạm pháp luật phải thống nhất với nhau và không có mâu thuẫn giữa các quy phạm pháp luật đó. Nhìn chung cần đảm bảo tính thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật về cùng một lĩnh vực ở trung ương cũng như chính quyền địa phương. Tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật được biểu hiện như sau: Trước hết, văn bản do một cơ quan ban hành không được mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác của chính cơ quan ban hành văn bản đó, văn bản của cơ quan nhà nước cấp dưới không mâu thuẫn với văn bản do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành. Ở trung ương, tính thống nhất cần được đảm bảo chủ yếu ở các văn bản quy phạm pháp luật do cấp bộ ban hành. Theo đó, văn bản quy phạm pháp luật do bộ, cơ quan ngang bộ ban hành không được trái với các quy định của quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ, cơ quan ngang bộ khác theo nguyên tắc văn bản của bộ, cơ quan ngang bộ ban hành về một lĩnh vực không được trái với văn bản quy định về lĩnh vực đó, do bộ, cơ quan ngang bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 quy định văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân phải phù hợp với Hiến pháp, Luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên, đảm bảo tính thống nhất, thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật; văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân còn phải phù hợp với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành. Như vậy, đối với việc ban hành văn bản ở địa phương phải đảm bảo tính thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương cùng cấp với nhau về cùng một lĩnh vực và cần tránh tình trạng có các quy định quá khác biệt giữa các chính quyền địa phương cùng cấp với nhau trong khi pháp luật trao cho các địa phương đó những thẩm quyền tương tự. Văn bản quy phạm pháp luật chỉ có thể có các quy định thật khác biệt trong trường hợp pháp luật cho phép địa phương có những thẩm quyền quản lý có tính chất đặc thù. Về nguyên tắc, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân của địa phương này không có nghĩa vụ phải xem xét và cân nhắc văn bản quy phạm pháp luật của địa phương khác cùng cấp. Tuy nhiên, khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân nên tham khảo kinh nghiệm của Hôi đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân khác cùng cấp để đảm bảo tính thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật mà mình ban hành. Tuy nhiên, tính thống nhất của văn bản không có nghĩa là sự rập khuôn giữa các quy phạm của văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành với văn bản của cơ quan nhà nước trung ương hoặc giữa các địa phương với nhau, nhất là trong điều kiện thực hiện chính sách phân quyền cho địa phương (địa phương ngày càng được trao nhiều thẩm quyền quản lý). Bên cạnh đó, tính phù hợp của văn bản không đòi hỏi sự sao chép giữa các quy phạm của văn bản do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành với văn bản của cơ quan nhà nước trung ương. Như vậy, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước, trong hệ thống văn bản pháp luật là một nguyên tắc, yêu cầu khách quan, tất yếu của mọi Nhà nước. Không những thế, đây còn là căn cứ để đánh giá hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động của bộ máy Nhà nước, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần hoàn thiện bộ máy nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta.  Tài liệu tham khảo - Bình luận Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi năm 2002), NXB Tư pháp, 2005.
Luận văn liên quan