Đề tài Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay

Phát triển kinh tế - xã hội gắn kết với bảo vệ môi trường là mục tiêu và cũng là đường hướng cơ bản để đạt tới sự phát triển bền vững. Thật khó có thể dùng một thước đo hay một công cụ nào khác để đo đếm sự hơn kém về tầm quan trọng giữa môi trường và phát triển. Do đó không thể có sự đánh đổi của môi trường cho phát triển hay ngược lại. Bảo vệ môi trường theo đó trở thành một vấn đề mang tính tất yếu khách quan trong thời đại phát triển ngày nay. Việt Nam đang trên con đường phát triển, Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh sự cần thiết của công tác bảo vệ môi trường, coi đó là công việc mang tính thường xuyên, cấp bách của toàn xã hội. Quan điểm, chủ trương xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường được Đảng, Nhà nước xác định rõ và bước đầu được cụ thể hóa triển khai vào thực tế đời sống. Vấn đề xây dựng mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường mà nhóm chúng em trình bày dưới đây là một nội dung quan trọng, góp phần thực hiện chủ trương xã hội hóa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, trên cơ sở nền tảng lý luận được xây dựng, chúng em sẽ đi sâu vào phân tích, đánh giá về một số mô hình và đưa ra những giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện các mô hình này. Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã có nhiều cố gắng song không thể tránh khỏi thiếu xót và hạn chế. Vì vậy, chúng em rất mong nhận được ý kiến nhận xét đóng góp của cô.

doc40 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2815 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Phát triển kinh tế - xã hội gắn kết với bảo vệ môi trường là mục tiêu và cũng là đường hướng cơ bản để đạt tới sự phát triển bền vững. Thật khó có thể dùng một thước đo hay một công cụ nào khác để đo đếm sự hơn kém về tầm quan trọng giữa môi trường và phát triển. Do đó không thể có sự đánh đổi của môi trường cho phát triển hay ngược lại. Bảo vệ môi trường theo đó trở thành một vấn đề mang tính tất yếu khách quan trong thời đại phát triển ngày nay. Việt Nam đang trên con đường phát triển, Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh sự cần thiết của công tác bảo vệ môi trường, coi đó là công việc mang tính thường xuyên, cấp bách của toàn xã hội. Quan điểm, chủ trương xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường được Đảng, Nhà nước xác định rõ và bước đầu được cụ thể hóa triển khai vào thực tế đời sống. Vấn đề xây dựng mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường mà nhóm chúng em trình bày dưới đây là một nội dung quan trọng, góp phần thực hiện chủ trương xã hội hóa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, trên cơ sở nền tảng lý luận được xây dựng, chúng em sẽ đi sâu vào phân tích, đánh giá về một số mô hình và đưa ra những giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện các mô hình này. Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã có nhiều cố gắng song không thể tránh khỏi thiếu xót và hạn chế. Vì vậy, chúng em rất mong nhận được ý kiến nhận xét đóng góp của cô. Xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI HÓA BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY GIẢI THÍCH MỘT SỐ THUẬT NGỮ LIÊN QUAN 1. Môi trường Nhiều học giả đưa ra định nghĩa khác nhau về môi trường. Sau đây là một số định nghĩa: - Môi trường là toàn bộ những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển, trong quan hệ với con người, với sinh vật ấy (Hoàng Phê. Từ điển Tiếng Việt, 1998) - Môi trường bao gồm tất cả những gì bao quanh sinh vật, tất cả các yếu tố vô sinh, hữu sinh có tác động trực tiếp lên sự sống, phát triển và sinh sản của sinh vật. - Sau Hội nghị Stockholm, năm 1972 đến nay, định nghĩa được dùng phổ biến là: “ Môi trường là khung cảnh tự nhiên, là khu nhà chung của giới sinh vật, là nơi con người sinh sống, lao động, nghỉ ngơi và giải trí, là nơi hình thành và tích lũy nguồn tài nguyên thiên nhiên”. - Theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (29/11/2005), đã quy định: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên, yếu tố vật chất nhân tạo. quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên”. (Điều 1) Như vậy, môi trường là tập hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người có ảnh hưởng tới con người và tác động qua lại với các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, đất, sinh vật, xã hội loài người. Môi trường sống của con người, theo chức năng được chia làm ba loại: môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường nhân tạo. 2. Hoạt động bảo vệ môi trường Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005: “Bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đến với môi trường, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm. suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học”. 3. Khái niệm cộng đồng Cộng đồng là một khái niệm cơ bản của khoa học xã hội và nhân văn, có nhiều cách hiểu và theo mỗi cách hiểu nội hàm này có giao diện rất khác nhau. Theo quan niệm của Unesco thì cộng đồng được coi là: “ Là một tập hợp người cùng sống trong một khu vực địa lý hoặc trong cùng một đơn vị hành chính, có chung các lợi ích, các điều kiện tồn tại và họat động” (Cứu lấy trái đất, 1983). Khái niệm cộng đồng ở đây được dùng với ý nghĩa là cộng đồng người cùng chung sống trên một đơn vị hành chính, như kiểu một đô thị; có chung một nền văn hóa, như kiểu một bộ tộc; hoặc một vùng địa phương thuộc thành thị hay nông thôn, như kiểu một nhóm người cùng sống tại một vùng thung lũng hoặc một nơi cùng có tính đặc thù. Ngoài ra, cộng đồng còn được hiểu là mối liên hệ qua lại giữa các cá nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng các lợi ích của các thành viên có sự giống nhau về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những con người hợp thành cộng đồng đó, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động khác của họ, sự gần gũi giữa họ về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị và chuẩn mực, nền sản xuất, sự tương đồng về điều kiện sống cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và các phương tiện hoạt động (Tô Duy Hợp& Lương Hồng Quang.2000). Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về cộng đồng nhưng nhìn chung chúng ta có hai cách hiểu về cộng đồng: cộng đồng tính và cộng đồng thể, đó là hai cách hiểu khác nhau nhưng không phải là đối lập nhau. - Cộng đồng tính: là thuộc tính hay quan hệ xã hội có đặc trưng cho một cộng đồng như tình cảm cộng đồng, tinh thần cộng đồng, ý thức cộng đồng … - Cộng đồng thể: là những tập hợp người (nhóm người, nhóm xã hội) có tính cộng đồng với rất nhiều thể có quy mô khác nhau, đó là các thể nhỏ, thể vừa, thể lớn, thể cực lớn, từ gia đình đến quốc gia và rộng ra nhân loại. 4. Xã hội hóa về bảo về môi trường Trong những năm 90 đến nay Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều văn bản để thực hiện chủ trương XHH các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 41 về bảo về môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó nhấn mạnh XHH là một trong những giải pháp chính để giải quyết vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay. Qua đó XHH BVMT được nhìn nhận với các nội dung sau: - Là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào BVMT. - Là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với tạo lập và thực hiện các biện pháp nhằm cải thiện, BVMT. - Là đa dạng hóa các hình thức hoạt động trong lĩnh vực BVMT. Bên cạnh việc củng cố vai trò của nhà nước, cần phát triển rộng rãi các hoạt động do các tập thể hoặc cá nhân tiến hành. - Là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng và nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân. II. VAI TRÒ CỦA MÔI TRƯỜNG VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 1. Mối quan hệ giữa môi trường với phát triển kinh tế - xã hội Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải biến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân và cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và phát triển có mối quan hệ rất chặt chẽ: môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường. Trong phạm vi một quốc gia cũng như trên phạm vi thế giới, luôn luôn tồn tại hai hệ thống: hệ thống kinh tế - xã hội và hệ thống môi trường. Trong hệ thống kinh tế - xã hội, hàng hóa được di chuyển từ sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm, phế thải. Các thành phần đó luôn ở trạng thái tương tác với các thành phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó. Khu vực giao nhau giữa hai hệ thống trên là môi trường nhân tạo. Tác động của hoạt động kinh tế - xã hội đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó, nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo. Mặt khác, môi trường tự nhiên cũng tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc làm suy thoái tài nguyên đang là đối tựợng của hoạt động phát triển hoặc gây ra thảm họa thiên tai đối với các hoạt động kinh tế - xã hội trong khu vực. Ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau thì có các xu hướng gây ô nhiễm môi trường khác nhau. Ví dụ: - Ô nhiễm do dư thừa: 20% dân số thế giới ở các nước giàu hiện sử dụng 80% tài nguyên và năng lượng của loài người. - Ô nhiễm do nghèo đói: những người nghèo khổ ở những nước nghèo chỉ có con đường phát triển duy nhất là khai thác tài nguyên thiên nhiên (rừng, khoáng sản, nông nghiệp…). Do đó, ngoài 20% số người giàu thì 80% số dân còn lại chỉ sử dụng 20% phần tài nguyên và năng lượng của loài người. Mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển dẫn đến sự xuất hiện các quan niệm hoặc các lý thuyết khác nhau về phát triển: lý thuyết đình chỉ phát triển là làm cho sự phát triển kinh tế bằng 0 hoặc mang giá trị âm để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của trái đất. Một số nhà khoa học lại đề xuất lấy bảo vệ để ngăn chặn sự khai thác tài nguyên thiên nhiên. Năm 1992, các nhà môi trường đã đưa ra qua niệm phát triển bền vững, đó là phát triển trong mức độ duy trì chất lượng môi trường, giữ cân bằng giữa môi trường với phát triển. Môi trường đã trở thành một trong những yếu tố đầu vào của quá trình phát triển kinh tế, đảm bảo cho một quốc gia phát triển mà không ảnh hưởng đến thế hệ tương lai. 2. Con người và môi trường là thể thống nhất với nhau Con người là một bộ phận của xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với môi trường. Lịch sử phát triển của tự nhiên cũng như của loài người đã chứng minh một luận điểm quan trọng rằng: môi trường chứa đựng và cung cấp nguồn sống cho con người, ngược lại con người là tác nhân là chủ thể cải tạo môi trường tự nhiên, gây ra những biến đổi quan trọng của môi trường sống. Chúng ta đều biết rằng năm cuộc khủng hoảng lớn hiện nay mà thế giới đang đối mặt là: dân số, lương thực, năng lượng, tài nguyên và sinh thái đều liên quan rất chặt chẽ với môi trường và rằng tất cả các cuộc khủng hoảng đó đều do con người chúng ta gây ra. Chính vì vậy, không ai ngoài con người phải nhận lấy trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái của mình nếu không muốn sự sống trên trái đất bị đe dọa. Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã chứng minh rõ mối quan hệ này. Đầu thập kỷ 70, Hamilton – nhà hóa học địa cầu của Vương quốc Anh đã đưa ra một kế hoạch thực nghiệm ngoài sức tưởng tượng giám định hàm lượng các nguyên tố hóa học trong đá, bụi đất, giấy, cá, lượng thực và máu, não của con người. Ông đã tiến hành thực nghiệm khoa học, giám định hơn 60 loại nguyên tố hóa học và phát hiện ra một kết luận thú vị: tỷ lệ hàm lượng các nguyên tố hóa học trong máu người trùng lặp rất kỳ lạ với tỷ lệ hàm lượng các nguyên tố hóa học trong lớp vỏ trái đất. Giữa máu người và vỏ trái đất có nhiều điểm giống nhau. Ví dụ: 4 loại nguyên tố hóa học là cacbon, hidro, oxy, nito chiếm tới 94,4% khối lượng của con người. 4 loại nguyên tố hóa học đó cũng chiếm khối lượng lớn nhất trong thành phần vơ trái đất. Ăngghen đã nói rằng: “Bản thân con người là sản phẩm của tự nhiên, cùng tồn tại trong môi trường tự nhiên, phát triển với môi trường tự nhiên đó”. Vật chất trong cơ thể con người do môi trường tự nhiên cung cấp. Không khí con người hít thở, nước con người uống đều lấy từ môi trường tự nhiên. Và thức ăn của con người xét cho cùng cũng là lấy từ môi trường tự nhiên: lúa, gạo, hoa màu, rau xanh, trái cây đều mọc từ đất; tôm, cá lớn lên trong nước. Con người và môi trường luôn thống nhất với nhau. Trái đất đang thay đổi và môi trường cũng đang thay đổi. Quá trình thay đổi này diễn ra rất chậm chạp. Sự thống nhất giữa con người và môi trường luôn ở dạng cân bằng. Một thay đổi nhỏ sẽ không phá vỡ thể thống nhất đó. Nhưng nếu vượt qua phạm vi giới hạn, sự cân bằng sẽ bị phá vỡ, khi đó hậu quả rất nặng nề. Do đó, trách nhiệm của con người trong việc đảm bảo sự thống nhất, cân bằng đó là rất quan trọng. Ngày nay, cộng đồng quốc tế cũng như mỗi quốc gia ngày càng nhận thức rõ hơn sự tác động tiêu cực từ việc môi trường tự nhiên bị xâm hại nghiêm trọng do chính hoạt động của con người gây ra. Chính vì vậy, cần có sự chung tay hợp tác giữa các nước trong giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường, đồng thời bản thân mỗi quốc gia cũng cần xây dựng cho mình những chương trình hành động cụ thể để bảo vệ môi trường sống của quốc gia mình. III. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC XHH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 1. Mục tiêu của xã hội hóa Đảng và nhà nước ta luôn nhấn mạnh bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là nhân tố quan trọng hàng đầu trong bảo đảm sức khỏe, chất lượng cuộc sống nhân dân; bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu vừa là một trong những nội dung cơ bản để đạt được sự phát triển bền vững ở nước ta. BVMT được xác định là một nhiệm vụ vừa phức tạp vừa cấp bách, do đó cần có sự tham gia của toàn xã hội. Nói cách khác, công tác XHH bảo vệ môi trường là cần thiết và cần được đẩy mạnh thực hiện. Trong chỉ thị số 36/CT-TW của Bộ Chính trị ngày 25/6/1998 xác định: “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân”. Nghị quyết số 41/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa và Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường giai đoạn 2001-2010, định hướng đến năm 2020 tiếp tục nhấn mạnh: “BVMT là nhiệm vụ của toàn xã hội, của các cấp, các ngành, các tổ chức, cộng đồng và của mọi ngừời dân”. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 là bước cụ thể hóa chủ trương của Đảng về bảo vệ môi trường trong thời kỳ mới trong đó cũng xác định rõ trách nhiệm của toàn xã hội đối với công tác bảo vệ môi trường, hướng tới sự phát triển bền vững. Công tác XHH bảo vệ môi trường được xác định hướng vào các mục tiêu cơ bản như sau: Trước hết, XHH bảo vệ môi trường nhằm tạo ra sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của toàn xã hội về BVMT, BVMT liên quan đến lợi ích thiết thân, là quyền và nghĩa vụ của từng cá nhân, tổ chức trong xã hội. Trên cơ sở đó xây dựng cộng đồng trách nhiệm trong BVMT. Xã hội hóa bảo vệ môi trường nhằm huy động, vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của toàn xã hội, bao gồm sự huy động về vật lực, nhân lực, sự tham gia bằng những hành động cụ thể vào sự nghiệp BVMT. Qua đó giảm gánh nặng trong vấn đề BVMT lên vai Chính phủ. Như vậy có thể thấy rằng công tác XHH bảo vệ môi trường mà Đảng và nhà nước ta xác định hướng trọng tâm vào việc tạo ra sự gắn kết cộng đồng trong BVMT; tạo cơ sở và tiền đề nhất quán cho việc thực hiện phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”. 2. Nội dung của XHH bảo vệ môi trường Trên cơ sở những mục tiêu mang tính chất định hướng đã nêu trên, XHH bảo vệ môi trường được cụ thể hóa thành những nội dung cơ bản sau: Một là, thiết lập cơ sở pháp lý cho vấn đề XHH bảo vệ môi trường. Trên cơ sở chủ trương, quan điểm của Đảng tiến hành xây dựng, ban hành hệ thống văn bản pháp luật tạo ra môi trường pháp lý cần thiết cho hoạt động XHH. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, các chương trình hành động theo hướng khuyến khích, động viên cá nhân, tổ chức tham gia công tác BVMT. Hình thành các loại hình tổ chức đánh giá, tư vấn, giám định, công nhận, chứng nhận về BVMT. Thứ hai, chú trọng xây dựng và thực hiện quy ước, hương ước, cam kết về BVMT. Việc xây dựng và thực hiện các văn bản quy phạm xã hội này dựa trên ý chí, nguyện vọng, sự tự nguyện thỏa thuận và cũng là những quy tắc xử sự chung áp dụng cho các cá nhân và toàn thể cộng đồng dân cư trên cùng địa bàn. Thứ ba, phát triển các phong trào quần chúng tham gia BVMT. Trước hết các phong trào tác động trực tiếp đến nhận thức của mọi người dân về môi trường và sự cần thiết phải bảo vệ môi trường. Qua đó tuyên truyền, vận động và huy động sự tham gia của toàn thể cộng đồng vào các hoạt động bảo vệ môi trường. Thứ tư, xây dựng và triển khai thực hiện các mô hình XHH bảo vệ môi trường . Việc xây dựng các mô hình này gắn liền với đời sống sinh hoạt của người dân, được lồng ghép vào trong các hoạt động kinh tế - xã hội. Qua tổ chức thực hiện các mô hình sẽ là cơ sở để đánh giá, từ đó phát hiện các mô hình điểm để phổ biến và nhân rộng. Thứ năm, huy động cộng đồng đóng góp nguồn lực cho công tác BVMT. Nguồn lực bao gồm sự đầu tư về vốn, nguồn lực con người, nguồn lực khoa học công nghệ…Trên cơ sở đó góp phần thực hiện thành công các chương trình, mô hình cũng như các phong trào BVMT. 3. Vai trò của các mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường Cộng đồng tham gia vào giải quyết các vấn đề môi trường trước hết là nội dung thể hiện tính dân chủ, tức là mọi người dân có quyền và được khuyến khích tham gia vào công việc quản lý của nhà nước, góp phần cùng với nhà nước thực hiện việc BVMT. Tuy nhiên, vấn đề cần được nhấn mạnh ở đây là ý thức của cộng đồng về môi trường. Đó là cơ sở, là nền tảng cho các yếu tố nhận thức, thái độ và hành động cụ thể của các thành viên trong cộng đồng. Xã hội hóa công tác BVMT được đặt ra song phải có hướng đi và các giải pháp đúng đắn. Trong đó việc xây dựng các mô hình cộng đồng tham gia BVMT hay mô hình XHH bảo vệ môi trường là một nội dung quan trọng. Các mô hình được xây dựng có sự gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, đó là một quá trình có sự đầu tư về trí tuệ, tâm huyết và cả những yếu tố vật chất khác. Mô hình XHH bảo vệ môi trường được triển khai trên nhiều lĩnh vực khác nhau và thông thường sẽ theo hai phương thức thứ nhất là người dân chủ động thiết lập các mô hình theo kiểu tự quản, thứ hai là người dân sẽ cùng với các cơ quan nhà nước mà cụ thể ở đây là các Trung tâm, các Viện nghiên cứu khoa học áp dụng và triển khai trên thực tế các mô hình. Mô hình XHH bảo vệ môi trường hiện nay được tập trung vào 4 loại cơ bản là mô hình trong đời sống sinh hoạt; mô hình trong công nghiệp; trong nông nghiệp; và các phong trào BVMT. Qua việc thực hiện các mô hình đã mang lại những chuyến biến tích cực trên mọi phương diện của đời sống kinh tế - xã hội, như gắn kết giữa mục tiêu phát triển kinh tế với mục tiêu BVMT, nâng cao ý thức cộng đồng về vấn đề BVMT, giúp khắc phục và cải thiện những vấn đề môi trường bức xúc hiện nay. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CÁC MÔ HÌNH XÃ HỘI HÓA BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Những kết quả đạt được So sánh với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam là một trong những quốc gia sớm hưởng ứng lời kêu gọi của quốc tế về vấn đề môi trường. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước và sự nỗ lực của toàn thể nhân dân, công tác bảo vệ môi trường đã có được những chuyển biến tích cực: Trước hết, chúng ta đã thiết lập và từng bước hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách về BVMT như: Chỉ thị số 36/CT- TƯ, Nghị quyết số 41/ NQ-TƯ của Bộ Chính trị; Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia giai đoạn 1991 – 2000 và giai đoạn 2001 – 2010; Luật Bảo vệ môi trường năm 1994 sửa đổi, bổ sung năm 2005 và các nghị định hướng dẫn thi hành; các chương trình quốc gia về môi trường … Nhận thức về BVMT trong các cấp, các ngành và trong nhân dân đã được nâng lên rõ rệt: bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp để hướng tới sự phát triển bền vững của đất nước. Hoạt động giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về BVMT đã được tăng cường triển khai và có nhiều tác dụng tích cực đến công tác BVMT. Các hoạt động này được cụ thể hóa thành các phong trào, các cuộc vận động, phát động về môi trường, trong đó có sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng hiện đại. Bước đầu đã hạn chế được mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Trong công tác bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học đã có những tiến bộ rõ rệt. Lãnh đạo nhiều Bộ, ngành, địa phương đã quan tâm hơn đến công tác BVMT trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Báo cáo hiện trạng môi trường trong quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đầu tư BVMT ngày càng được chú trọng. Những nội dung cơ bản của XHH hoạt động BVMT đang được thực hiện như xác định trách nhiệm các bên, tạo cơ sở pháp lý cho cộng đồng; xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước bảo vệ môi trường; phát triển phong trào quần chúng; xây dựng mô hình BVMT lồng ghép các mô hình kinh tế - xã hội; huy động cộng đồng đóng góp nguồn lực…kết quả mang lại từ những họat động này là việc nâng cao nhận thức và hiểu biết của toàn xã hội về BVMT, thu hút sự chung tay, đóng góp và hành động vì một môi
Luận văn liên quan