Đề tài Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏvà vừa tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam

Năm 2007 là năm đánh dấu sự chuy ển mình của nền kinh tế Việt Nam, là năm Việt Nam trởthành thành viên chính thức của tổchức thương mại thếgiới WTO và Mỹbình thường hoá quan hệvĩnh viễn với nước ta. Những nhân tố đấy đã góp phần đưa nền kinh tế Đất nước hoà mình vào dòng chảy chung của nền kinh tếthếgiới, phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá, đa phương hoá và đa dạng hoá. Nền kinh tếtăng trưởng mạnh, đạt được nhiều kết quảkhởi sắc và những thay đổi to lớn. Góp phần không nhỏ vào sựthay đổi đó là sựnỗlực vươn lên và phát triển mạnh mẽcủa các doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh tế. Đối với m ột nước đang phát triển nhưnước ta thì loại hình DNNVV chiếm đa sốvà hoạt động trên tất cảcác lĩnh vực, ngành nghềkinh tế. Cùng với sựnhạy bén linh hoạt của mình các DNNVV đã vượt qua những khó khăn, thử thách ban đàu và ngày càng khẳng định vai trò vịtrí của mình trong nền kinh tế. Góp phần thúc đẩy tốc độtăng trưởng kinh tế, giải quy ết công ăn việc làm cho lượng lao động dồi dào nhưng trình độthấp ởnước ta hiện nay và đồng thời hỗtrợ, thúc đẩy các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tếphát triển. Tuy nhiên, trong thực tếhoạt động của các DNNVV cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là khó khăn vềvốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và vềviệc tiếp cận ngân hàng đểvay vốn của họlại càng khó khăn hơn

pdf89 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2322 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏvà vừa tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: “Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.” 2 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DNNN Doanh nghiệp Nhà nước DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa NHNN Ngân hàng Nhà nước NHNo & PTNT VN Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam NHTM Ngân hàng thương mại NHTW Ngân hàng trung ương TCTD Tổ chức tín dụng SGD Sở giao dịch LỜI MỞ ĐẦU 3 Năm 2007 là năm đánh dấu sự chuyển mình của nền kinh tế Việt Nam, là năm Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO và Mỹ bình thường hoá quan hệ vĩnh viễn với nước ta. Những nhân tố đấy đã góp phần đưa nền kinh tế Đất nước hoà mình vào dòng chảy chung của nền kinh tế thế giới, phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá, đa phương hoá và đa dạng hoá. Nền kinh tế tăng trưởng mạnh, đạt được nhiều kết quả khởi sắc và những thay đổi to lớn. Góp phần không nhỏ vào sự thay đổi đó là sự nỗ lực vươn lên và phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh tế. Đối với một nước đang phát triển như nước ta thì loại hình DNNVV chiếm đa số và hoạt động trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề kinh tế. Cùng với sự nhạy bén linh hoạt của mình các DNNVV đã vượt qua những khó khăn, thử thách ban đàu và ngày càng khẳng định vai trò vị trí của mình trong nền kinh tế. Góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho lượng lao động dồi dào nhưng trình độ thấp ở nước ta hiện nay và đồng thời hỗ trợ, thúc đẩy các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động của các DNNVV cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là khó khăn về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và về việc tiếp cận ngân hàng để vay vốn của họ lại càng khó khăn hơn. Trong xu thế hội nhập của nền kinh tế, các NHTM sẽ có nhiều cơ hội và thách thức hơn trong quá trình hoạt động.Trước áp lực cạnh tranh, các NHTM sẽ phải ngày càng mở rộng hoạt động của mình theo cả chiều sâu và chiều rộng, vừa phải đa dạng hoá dịch vụ, đa dạng hoá khách hàng của mình, đồng thời phải xác định được đâu là đối tượng khách hàng tiềm năng và là khách hàng mục tiêu của mình để từ đó có được những chính sách kế hoạch cho hoạt động của mình có hiệu quả hơn. Trong các NHTM đó thì SGD NHNo & PTNT VN đã xác định được các DNNVV là khách hàng tiềm năng và mục tiêu của họ, do đó trong những năm gần đây họ đã có 4 nhiều chính sách cho việc mở rộng cho vay các DNNVV nhưng kết quả mở rộng chưa cao. Từ thực tế đã nêu và những thông tin tìm hiểu được tại SGD NHNo & PTNT VN, đề tài “Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của chuyên đề được kết cấu theo 3 chương: Chương 1: Lý luận về mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng đối với DNNVV. Chương 2: Thực trạng mở rộng tín dụng đối với DNNVV tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp mở rộng tín dụng đối với DNNVV tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. 5 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA. 1.1 CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. Theo Luật các Tổ chức Tín dụng số 07/1997/QHX của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác”. Trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trung gian tài chính, là chiếc cầu nối chu chuyển những khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội đến tay những người có nhu cầu và khả năng đầu tư. NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Nếu đứng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp, ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Luật các Tổ chức tín dụng 07/1997/QHX qui định: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Trước tiên, để hiểu xem một ngân hàng hoạt động như thế nào, ta hãy xem xét bản quyết toán tài sản của ngân hàng đó. 6 Tài sản Nguồn vốn Các khoản mục về ngân quỹ - Tiền dự trữ - Tiền mặt trong quá trình thu - Tiền gửi ở các ngân hàng khác Các chứng khoán - Chứng khoán chính phủ - Chứng khoán công ty - Hùn vốn dưới các hình thức khác Các khoản tiền cho vay - Thương mại và công nghiệp - Bất động sản - Tiêu dùng - Cho vay giữa các ngân hàng - Các khoản tiền cho vay khác Các tài sản Có khác. Tiền gửi - Tiền gửi thanh toán - Tiền gửi có kỳ hạn - Tiền gửi tiết kiệm - Các hình thức huy động khác Các khoản tiền đi vay - Vay Ngân hàng Trung ương - Vay các ngân hàng khác Vốn chủ sở hữu - Vốn điều lệ - Các quỹ và lợi nhuận chưa phân phối Cân đối Cân đối Như vậy, các ngân hàng thu lợi nhuận bằng cách bán những tài sản nợ có một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng tiền thu được để mua những tài sản có một số đặc tính khác. Các ngân hàng cung cấp một dịch vụ chuyển một loại tài sản này thành một loại tài sản khác cho công chúng. Quá trình chuyển các tài sản và cung cấp một loạt dịch vụ (thanh toán séc, ghi chép sổ sách, phân tích tín dụng...) giống bất cứ quá trình sản xuất khác của một hãng kinh doanh. Nếu ngân hàng tạo ra những dịch vụ hữu ích với chi phí thấp và có được doanh thu cao nhờ 7 vào tài sản có của mình, thì ngân hàng thu được lợi nhuận, nếu không, thì ngân hàng này chịu tổn thất. Hoạt động cơ bản của một NHTM được qui định trong Nghị định 49 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM, bao gồm: 1.1.1 Huy động vốn. NHTM được huy động vốn dưới các hình thức sau: - Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. Đây là nghiệp vụ rất đặc trưng, cơ bản của ngân hàng. Thông thường vốn tự có chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong toàn bộ vốn kinh doanh, nên để có nguồn vốn để cho vay các NHTM phải huy động một lượng vốn từ các nguồn tiền nhàn rỗi và tiền tiết kiệm trong dân chúng. Số vốn huy động thường gấp nhiều lần so với vốn tự có. Tiền gửi là bộ phận chủ yếu trong tổng nguồn vốn của NHTM. Vốn tiền gửi có thể trả lãi, có thể không phải trả lãi, ngân hàng dùng số tiền này để hình thành các tài sản mang lại thu nhập. Tuy nhiên ngân hàng không thể sử dụng toàn bộ số tiền gửi để cho vay và đầu tư mà phải dành một tỷ lệ nhất định dự trữ thường xuyên để đảm bảo chi trả cho người gửi đến rút và ký quỹ bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nước (NHNN). - Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước khi được Thống đốc NHNN chấp thuận. - Vay vốn của các Tổ chức tín dụng (TCTD) khác hoạt động tại Việt Nam và của TCTD nước ngoài. - Vay vốn ngắn hạn của NHNN. Trong quá trình kinh doanh hoạt động, ở cùng một thời điểm có TCTD thừa vốn, có TCTD thiếu vốn, họ có thể vay qua lại lẫn nhau tại thị trường liên ngân hàng. Chúng cũng có thể vay từ NHNN trong trường hợp 8 thiếu hụt trong thanh toán bù trừ, do thiếu vốn trong các hoạt động thời vụ hay do khó khăn tài chính. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng có thể vay vốn thông qua phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán… - Vốn ngân hàng và các hình thức huy động khác. Để có thể thành lập một ngân hàng thông thường, chủ sở hữu phải có một số vốn nào đó lớn hơn số vốn mà pháp luật quy định, gọi là vốn pháp định. Mức góp vốn của các chủ sở hữu ngân hàng được chấp nhận ghi vào Điều lệ hoạt động gọi là vốn điều lệ. Vốn tự có của ngân hàng bao gồm trong đó số vốn điều lệ thực góp cộng với các quỹ trích từ lợi nhuận ròng hàng năm như: Quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng phúc lợi, quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ… 1.1.2 Hoạt động tín dụng. NHTM được cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN. Về hoạt động cho vay, NHTM được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới hình thức cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đời sống; cho vay trung và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Trong đó, NHTM chủ động tìm kiếm các dự án sản xuất, kinh doanh khả thi, có hiệu quả và có khả năng trả nợ để cho vay. Về hoạt động bảo lãnh, NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh theo quy định của NHNN. Đồng thời, NHTM được chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính. 9 1.1.3 Dịch vụ thanh toán và ngân quĩ. NHTM phải mở tài khoản tiền gửi tại NHNN nơi NHTM đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định; được mở tài khoản tại ngân hàng khác trong nước theo quy định của NHNN. Về dịch vụ thanh toán, NHTM được: - Cung ứng các phương tiện thanh toán; - Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng; - Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ; - Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép; - Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng; - Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. 1.1.4 Các hoạt động khác. NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các TCTD khác; được tham gia thị trường tiền tệ. NHTM cũng được quyền ủy thác, nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng. Ngoài ra, NHTM còn được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, tư vấn tài chính, bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác. Đặc biệt, NHTM không được trực tiêp kinh doanh bất động sản. 1.2 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA. 1.2.1 Khái niệm. Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là một bộ phận cấu thành không thể thiếu được của nền kinh tế, có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời với các chủ thể khác. Việc phân chia DNNVV dựa vào tiêu thức quy mô doanh nghiệp. Theo tiêu thức này doanh nghiệp bao gồm: doanh nghiệp lớn, DNNVV. Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm DNNVV nhưng khái niệm chung nhất về DNNVV có nội dung như sau: 10 - Doanh nghiệp nhỏ và vừa là những cơ sở sản xuất, kinh doanh có tư cách pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia. - Doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. DNNVV có thể chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó là: doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ. Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 người đến 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 người đến 300 lao động. Mỗi nước đều có tiêu chí riêng để xác định DNNVV ở nước mình. Ở Việt Nam, khái niệm DNVVN được đưa ra ở điều 3, Nghị định 90/2001/NĐ – CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: “ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sảng xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động hằng năm không quá 300 người.” Theo điều 4 các DNVVN bao gồm: - Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước. - Các hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã. - Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. 11 Như vậy có rất nhiều tiêu thức để phân loại DNNVV. Một số tiêu thức như vốn, lao động, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng được dùng khá phổ biến trên thế giới cũng giống như ở Việt Nam. Trong đó, hai tiêu thức được sử dụng nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô vốn và lao động. Cơ sở xác định qui mô vốn và lao động: - Vốn đăng kí: đối với doanh nghiệp Nhà nước là vốn điều lệ được Nhà nước cấp, đối với doanh nghiệp còn lại là vốn ghi trên đăng kí kinh doanh, giấy phép đầu tư. - Lao động trung bình hàng năm là số lao động bình quân mà doanh nghiệp đã dăng kí với cơ quan quản lý lao động và có tham gia đóng bảo hiểm xã hội (không bao gồm số lao động doanh nghiệp kí hợp đồng thời vụ, hợp đồng công việc). Tuy nhiên, mỗi một nước, mỗi một nền kinh tế lại lựa chọn các tiêu chuẩn khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố:  Trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng nước: Thông thường các nước có trình độ phát triển càng cao thì quy định về chỉ tiêu quy mô vốn cũng như lao động cao hơn so với các nước có trình độ phát triển thấp. Ví dụ như ở Nhật Bản doanh nghiệp có số vốn dưới 1 triệu USD và lao động dưới 300 người được coi là DNVVN, nhưng ở các nước chậm phát triển như Việt Nam hay là Lào, Campuchia thì đó lại là doanh nghiệp lớn. Các giới hạn tiêu chuẩn này thay đổi theo thời gian sao cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn. Khi nền kinh tế tăng trưởng, quy mô hoạt động của các doanh nghiệp mở rộng thì giới hạn tiêu chuẩn sẽ được điều chỉnh lại. Hoặc khi nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, một số doanh nghiệp phá sản hoặc bị sáp nhập, giải thể, số lượng các doanh nghiệp giảm. Lúc đó tiêu chuẩn 12 để phân loại DNVVN cũng sẽ thay đổi tỷ lệ với tốc độ tăng trưởng quy mô của các doanh nghiệp.  Theo ngành nghề khác nhau: do mỗi ngành nghề có tính chất, đặc trưng riêng nên việc phân biệt quy mô vốn cũng như lao động sử dụng riêng cho từng ngành nghề cũng khác nhau. Chẳng hạn như ở Nhật Bản, các doanh nghiệp ở khu vực sản xuất phải có số vốn dưới 1 triệu USD và dưới 300 lao động, trong khi đó thương mại- dịch vụ có số vốn dưới 300.000USD và dưới 100 lao động thì đều thuộc DNVVN. Ở Việt Nam, đối với doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp nhỏ có vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống và số lao động từ 50 người trở xuống, còn các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ số lao động dưới 30 người. Đường lối, chính sách, chiến lược và khả năng hỗ trợ của mỗi quốc gia. Với mục tiêu phát triển ổn định và bền vững kinh tế - xã hội, các nước đều đưa ra những tiêu thức phân loại DNVVN dùng làm căn cứ thiết lập những chính sách phát triển và hỗ trợ DNVVN. Điều này hết sức quan trọng, ảnh hưởng tới tổng thể nền kinh tế vì các DNVVN thường chiếm tỷ lệ lớn. Như vậy, việc xác định rõ các tiêu thức để phân loại DNVVN có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là cơ sở để xác định cơ chế quản lý với những chính sách ưu tiên thích hợp và xây dựng cơ cấu tổ chức, quản lý có hiệu quả đối với hệ thống các doanh nghiệp này. Xác định tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với phát triển kinh tế đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 6 năm trở lại đây, Chính phủ có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình kinh tế này. Chính vì vậy số lượng DNVVN tăng lên đáng kể. 13 1.2.2 Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.2.2.1 DNNVV có quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ bé Phần lớn các DNNVV đều có quy mô nhỏ bé. Thực chất thì đặc điểm này do chính tiêu chí phân loại DNNVV của Nghị định 90/NĐ-CP quy định, đó là các doanh nghiệp có vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ đồng và lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Như vậy thì chính quy mô về nguồn vốn và lao động kéo theo khó khăn về mặt bằng sản xuất kinh doanh, trình độ công nghệ và năng lực quản lý hạn chế, thiếu thông tin gây ra nhiều yếu kém trong sản xuất mà trong đó thiếu vốn là đặc điểm nổi bật. 1.2.2.2 Quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNVV thấp Hầu hết các DNNVV được thành lập có nguồn vốn dựa vào nguồn vốn tích lũy cá nhân cộng với tích lũy của gia đình. Do đó, những người điều hành doanh nghiệp hầu hết có thế mạnh về vốn nhiều hơn là có thế mạnh về năng lực quản lý. Còn các DNNVV của nhà nước thì lại có nhiều nhà quản lý yếu kém về trình độ điều hành nên cũng chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường như hiện nay, gây khó khăn trong việc đảm bảo cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển bền vững. Bên cạnh đó, số người của DNNVV có trình độ, được đào tạo còn ít. Khó khăn của các doanh nghiệp này là không thu hút được nhiều các cán bộ kỹ thuật cũng như các nhà quản lý giỏi, những công nhân có tay nghề cao. Từ đó, dẫn đến năng suất lao động thấp, hiệu quả sử dụng vốn kém ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả vốn vay và bảo toàn vốn thấp. Chính điều này sẽ dẫn tới khả năng tiếp cận vốn của các ngân hàng của các doanh nghiệp này bị hạn chế. 1.2.2.3 Sức cạnh tranh của DNNVV còn thấp 14 Do các DNNVV là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh còn ít làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm như: chất lượng chưa cao, sức cạnh tranh của hàng hóa dịch vụ còn yếu… do đó không mở rộng được thị trường, ngày càng khó tiêu thụ hàng hóa. Chính điều này sẽ dẫn đến doanh thu thấp và lợi nhuận cũng thấp, cản trở việc sản xuất kinh doanh, dễ có những hành vi gian lận thương mại, kinh doanh trái với quy định của pháp luật. 1.2.2.4 Môi trường kinh doanh bên ngoài có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của DNNVV Chính những đặc trưng về quy mô nguồn vốn và lực lượng lao động đã phần nào nói lên sự phụ thuộc của các DNNVV vào môi trường kinh doanh. Các tác động từ bên ngoài tới doanh nghiệp cũng đã gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp này. Trước hết, sự tác động quản lý của nhà nước về hoàn thiện Luật doanh nghiệp, các chính sách thuế, chính sách tín dụng, thương mại, chính sách khoa học công nghệ, lao động và việc làm… có nhiều bất cập. Tác động quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp trong khâu tổ chức còn nhiều bức xúc. Sự thiếu hụt và rối loạn thị trường như: thị trường vốn, thị trường thông tin, thị trường dịch vụ và nạn hàng giả, hàng lậu tràn lan gây nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNVV. 1.2.3 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với nền kinh tế DNVVN có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước. Ở nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt là các nước phát triển DNVVN luôn là nền tảng của nên kinh tế, là bộ phận cấu thành không thể thiếu được của nền kinh tế. Chính phủ các nước cũng xác định vai trò q