Trong hệ thống bộ máy nhà nước của các nước hiện đại hầu hết đều có một thiết chế đặc biệt với những tên gọi khác nhau như: vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch, hội đồng liên bang, hội đồng nhà nước, chủ tịch nước. Những cơ cấu này có vị trí khác nhau trong bộ máy nhà nước của từng nước, cùng được gọi chung là nguyên thủ quốc gia – người đứng đầu nhà nước, đại diện cho đất nước về đối nội, đối ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước. Chủ tịch nước có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan nhà nước trung ương như Quốc hội, Chính phủ, Toàn án nhân dân tối cao, viện kiểm soát nhân dân tối cao, . Để có được những kiến thức về Chủ tịch nước ta cần có cái nhìn tổng quan về vị trí tính chất và trật tự hình thành, cũng như nhiệm vụ của chủ tịch nước, từ đó xem xét và hiểu được mối quan hệ giữa chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước trung ương. Có như vậy ta mới thấy được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của Chủ tịch nước đối với bộ máy nhà nước Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
8 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4262 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước Trung Ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong hệ thống bộ máy nhà nước của các nước hiện đại hầu hết đều có một thiết chế đặc biệt với những tên gọi khác nhau như: vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch, hội đồng liên bang, hội đồng nhà nước, chủ tịch nước. Những cơ cấu này có vị trí khác nhau trong bộ máy nhà nước của từng nước, cùng được gọi chung là nguyên thủ quốc gia – người đứng đầu nhà nước, đại diện cho đất nước về đối nội, đối ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước. Chủ tịch nước có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan nhà nước trung ương như Quốc hội, Chính phủ, Toàn án nhân dân tối cao, viện kiểm soát nhân dân tối cao,…. Để có được những kiến thức về Chủ tịch nước ta cần có cái nhìn tổng quan về vị trí tính chất và trật tự hình thành, cũng như nhiệm vụ của chủ tịch nước, từ đó xem xét và hiểu được mối quan hệ giữa chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước trung ương. Có như vậy ta mới thấy được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của Chủ tịch nước đối với bộ máy nhà nước Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Nội dung
I. Khái quát chung về chủ tịch nước:
1. Vị trí, tính chất của Chủ tịch nước
Theo Điều 101 Hiến pháp 1992, “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”.
Như vậy,cũng như các Hiến pháp năm 1959, Chủ tịch nước chỉ đóng vai trò nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước ta về đối nội và đối ngoại, chứ không đứng đầu Chính phủ như chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946.
2. Trật tự hình thành của Chủ thịch nước:
Chức vụ chủ tịch nước ở nước ta dùng hình thức bầu cử gián tiếp.
Cử tri cả nước sẽ bầu ra các đại biều Quốc hội sau đó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biều Quốc hội theo sự giới thiệu của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Theo điều 102 Hiến pháp 1992, “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biều Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm kì của Chủ tịch nước theo nhiệm kì của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kì, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ tịch nước mới”.
Trật tự hình thành này nói lên chủ tịch nước có mối liên quan chặt chẽ đối với cơ quan quyền lực cao nhất – Quốc hội.
3.Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước
Theo Điều 103 Hiến pháp 1992 quy định về hiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch nước và các điều khoản liên quan như Điều 135 và Điều 139 Hiến pháp 1992:
Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại
Chủ tịch nước ở nước ta cũng như hầu hết các nguyên thủ quốc gia đều được quy định quyền này. Cụ thể là:
Chủ tịch nước "Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định" (Điểm 10 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
Và ở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, quy định này được bổ sung thêm đó là: Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn các điều ước Quốc tế trược tiếp kí.
- Chủ tịch nước "Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam" (Điểm 11 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).- Chủ tịch nước "Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh" (Điểm 2 Điều 103 Hiến pháp năm 1992). - Chủ tịch nước "Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước" (Điểm 9 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
- Chủ tịch nước "Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương" (Điểm 6 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
Trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001, điểm này được bổ sung thêm: Trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.
- Chủ tịch nước "Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá" (Điểm 5 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
- Chủ tịch nước "Quyết định đặc xá" (Điểm 12 Điều 102 Hiến pháp năm 1992).Ở đây cần làm rõ hai chế định "đặc xá" và "đại xá". Đại xá là việc tha miễn truy tố đối với một số loại tội nhân một dịp long trọng nào đó. Đại xá do Quốc hội quyết định, Chủ tịch nước công bố. Còn đặc xá là việc Chủ tịch nước tha tù hoặc miễn hình phạt tù còn lại đối với những phạm nhân có hoàn cảnh đặc biệt như: ốm đau nặng, già cả, có công lao hoặc có hoàn cảnh gia đình quá khó khăn... Việc đặc xá này thường được thực hiện nhân dịp lễ tết và hay kết hợp với việc tha tù trước thời hạn và giảm án.
Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp:
Trong lĩnh vực lập pháp, Chủ tịch nước có quyền:
Trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành (Điều 62 luật tổ chức Quốc hội).- "Công bố Hiến pháp, luật và pháp lệnh" (Điểm 1 Điều 103). Việc công bố các văn bản này là một phần của quá trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực hiện. Thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày thông qua (Điều 50 Luật ban hành văn bả quy phạm pháp luật, Điều 91 Luật tổ chức Quốc hội sửa đổi năm 2001). Văn bản có hiệu lực kể từ khi công bố hoặc theo quy định tại văn bản. Đối với pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua. "Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày. Nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất" (Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong trường hợp này thời hạn công bố chậm nhất là mười ngày kể từ ngày được Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại thông qua hoặc từ khi Quốc hội quyết định (Điều 49 và Điều 52 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).
Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chủ tịch nước còn công bố Nghị quyết của Quốc hội tương tự như đối với Luật, công bố hoặc đề nghị xem xét lại Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tương tự như đối với Pháp lệnh.
Trong lĩnh vực hành pháp, Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ, giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội) (Điểm 4 Điều 103 Hiến pháp năm 1992); Ban bố tình trạng khẩn cấp khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được; trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tưóng, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng (Điều 20 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001). Trước đây, Hiến pháp quy định cho Chủ tịch nước thẩm quyền lớn đối với hai vấn đề (thuộc lĩnh vực hành pháp) được Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội giải quyết trong thời gian Quốc hội không họp là: Phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược thì Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại các Nghị quyết về vấn đề đó (trong thời hạn 10 ngày); nếu Nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quôc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất (Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp 1992).
Trong lĩnh vực tư pháp và giám sát, Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điểm 3 Điều 103 Hiến pháp năm 1992); bổ nhiệm Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương, Phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trước đây, theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân cũ, Chủ tịch nước còn bổ nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án các cấp. Nay Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002 đã bãi bỏ điểm này, giao về cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao thực hiện. Chủ tịch nước xem xét và quyết định việc ân xá (giảm án tử hình). Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình Hiến pháp quy định “Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ” (Điều 105 Hiến pháp 1992).
Điều 106 Hiến pháp năm 1992: “Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình”.
II. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước trung ương theo pháp luật hiện hành:
1. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Quốc hội
Về mối quan hệ với Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 có những quy định cơ bản sau:
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ( trong số các đại biểu Quốc hội) miễn nhiệm và bãi nhiệm.
Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước.
Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước trái HIến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội.
Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập kỳ họp bất thường của Quốc hội.
Trong mối quan hệ với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hiến pháp đã quy định Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện để Chủ tịch nước theo được sát ý kiến của tập thể Ủy ban thường vụ Quốc hội khi thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, đồng thời cũng để chủ tịch nước có thể đóng góp kịp thời ý kiến của mình.
Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày được thông qua.
Tuy nhiên, Chủ tịch nước có quyền “Đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ quốc hội về các vấn đề quy định tại điểm 8, điểm 9, điều 91 trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày pháp lệnh hoặc nghị quyết được thông qua; Nếu pháp lệnh, nghị quyết đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình quốc hội nghị quyết tại kì họp gần nhất. (điểm 7 điều 103)
Nếu Pháp lệnh, Nghị quyết đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình trước Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất.
2. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ
Mối quan hệ này được hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992 quy định:
Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng.
Chủ tịch nước căn cứ Nghị quyết của Quốc hội hoặc ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
Chính phủ mời Chủ tịch nước tham dự phiên họp của Chính phủ, trình Chủ tịch nước quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền Chủ tịch nước.
Thủ tướng chính phủ đôn đốc , kiểm tra việc thực hiện những quyết định của Chủ tịch nước. Các báo cáo công tác chủ Chính phủ trước Chủ tịch nước phải được Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số.
Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Tòa án nhân dân tối cao
Với hiến pháp năm 1992, chế độ bầu cử Thẩm phán đã được thay bằng chế độ Thẩm phán bổ nhiệm, chỉ trừ đối với các chức vụ Chánh án tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Các chức vụ khác từ Phó chánh án Tòa án Nhân dân tối cao đến thẩm phán tòa án nhân dân cấp huyện, từ Chánh án Tòa án quân sự Trung ương đến Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm.
Trong thời gian Quốc hội không họp,Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm.
4. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 8 tháng 10 năm 1992 đã có những quy định sau:
Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm viện trưởng viện kiểm sát tòa án nhân dân tối cao.
Chủ tịch nước bổ nhiêm, miễn nhiệm, cách chức Phó viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong thời gian Quốc hội không họp, Viện trưởng viện kiểm sát tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải được Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Nếu viện trưởng không nhất trí với ý kiến đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì phải thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch nước.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm.
Qua quy định trên đây của HIến pháp và các Luật tổ chức Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể rút ra kết luận sau về tính chất, vị trí của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước.
Kết luận
Chủ tịch nước có trách nhiệm thực hiện các chức năng của nguyên thủ quốc gia – người đứng đầu nhà nước, đại diện cho nước đó về mặt đối nội và đối ngoại. Thay mặt nhà nước quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia, đảm bảo cho sự phân công phối hợp giữa các cơ cấu của bộ máy nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước trong thời kì đổi mới.
Qua sự tìm hiểu những vấn đề ở trên có thể nói để thực hiện tốt những chức năng này, Chủ tịch nước phải có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Chỉ có như vậy, bộ máy nhà nước mới hoạt động có hiệu quả. Góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.