Đề tài Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỉ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư

Sau khi tiến hành đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2009 đã tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên bức tranh nền kinh tế Việt Nam vẫn nổi lên nhiều điểm sáng như: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) cam kết năm 2009 đạt con số kỷ lục trên 8 t ỷ USD vượt ra ngoài dự báo của các chuyên gia. Trong khi nhiều nền kinh tế lớn khu vực Châu Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc rơi vào tăng trưởng âm hoặc bằng 0%, Việt Nam đã có cuộc vượt bão ngoãn mục với mức tăng trư ởng năm 2009 đạt 5.2%. Với các con số ấn tượng trên Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá cao Việt Nam đang và sẽ nhanh chóng trở thành một trong những điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài. Để có thể thu hút được một lượng vốn lớn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước chúng ta cần nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến qui mô vốn đầu tư để có thể đề ra các chính sách nâng cao hiệu quả đầu tư một cách hợp lý.

doc77 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4423 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỉ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Sau khi tiến hành đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2009 đã tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên bức tranh nền kinh tế Việt Nam vẫn nổi lên nhiều điểm sáng như: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) cam kết năm 2009 đạt con số kỷ lục trên 8 t ỷ USD vượt ra ngoài dự báo của các chuyên gia. Trong khi nhiều nền kinh tế lớn khu vực Châu Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc rơi vào tăng trưởng âm hoặc bằng 0%, Việt Nam đã có cuộc vượt bão ngoãn mục với mức tăng trư ởng năm 2009 đạt 5.2%. Với các con số ấn tượng trên Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá cao Việt Nam đang và sẽ nhanh chóng trở thành một trong những điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài. Để có thể thu hút được một lượng vốn lớn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước chúng ta cần nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến qui mô vốn đầu tư để có thể đề ra các chính sách nâng cao hiệu quả đầu tư một cách hợp lý.Nghiên cứu đề tài “ Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỉ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư” để thấy rõ mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận đầu tư với quy mô vốn đầu tư ở Việt Nam trong những năm gần đây. Qua đó chúng tôi cũng đề xuất một số giải pháp để mở rộng quy mô vốn đầu tư trong bối cảnh hiện nay. Trong quá trình thực hiện đề tài có thể còn có nhiều thiếu sót chúng tôi rất mong muốn nhận được sự góp ý và bổ sung của thầy cô và các bạn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Từ Quang Phương và TS. Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃ̃I SUẤT, TỶ SUẤT LỢI NHUẬN VỐN ĐẦU TƯ VÀ QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ I. Lãi suất: 1. Khái nệm chung về lãi suất. Có nhiều quan điểm khác nhau về lãi suất vốn vay, dưới đây là một số quan điểm hay sử dụng: Theo K.Marx: Lãi suất là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản sản xuất phải trả cho nhà tư bản tiền tệ vì đã sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học lượng cầu về tài sản: Các nhà kinh tế học về lượng cầu về tài sản chia thế giới tài sản thành hai phần.Phần thứ nhất là tiền mặt, phần thứ hai là những tài sản không phải tiền măt như trái phiếu, cổ phiếu và các hình thức đầu tư tài sản khác… Theo quan điểm này lãi suất là chi phí cơ hội cho việc nắm giữ tài sản tài chính tiền mặt, phiếu, hệ vay mượn hoặc cho thuê các dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ cổ phiếu hay các hình thức tài sản khác. Theo quan điểm của ngân hàng thế giới (WB): lãi suất là tỷ lệ phần trăm của tỷ lệ tiền lãi so với tiền vốn. Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về lãi suất nhưng theo nghĩa chung nhất lãi suất là giá cả của tín dụng – giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác nhau. Khi đến hạn, người ta sẽ phải trả cho người cho vay một khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi suất. 2. Vai trò của lãi suất. Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, lãi suất lại là một công cụ điều tiết cho vay kinh tế rất nhạy bén và hiệu quả. Thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ nhất định, chính phủ có thể tác động đến quy mô và tỷ trọng các loại vốn đầu tư, do vậy mà có thể tác động đến quá trình điều chỉnh cơ cấu; đến tốc độ tăng trưởng, sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp và tình trạng lạm phát trong nước. Hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định của nền kinh tế mở, chính sách lãi suất còn được sử dụng như là một công cụ góp phần điều tiết đối với các luồng vốn đi vào hay đi ra đối với một nước, tác động đến tỷ giá và điều tiết sự ổn định tỷ giá. Điều này không những tác động đến đầu tư phát triển kinh tế mà còn tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán và các quan hệ thương mại quốc tế của nước đó đối với nước ngoài. Dưới góc độ kinh tế vi mô: lãi suất là cơ sở để cho các cá nhân cũng như các doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh tế của mình như: chi tiêu hay để dành gửi tiết kiệm; đầu tư số vốn tích luỹ được vào danh mục đầu tư này hay danh mục đầu tư khác… Vậy với mức lãi suất cho vay hợp lý, sẽ kích thích các nhà đầu tư vay vốn mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh cho xã hội, tăng thu nhập quốc dân, hạn chế thất nghiệp tăng mức sống của người đó tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.Và khi nền kinh tế phát triển, thu nhập quốc dân tăng, sẽ tác động trở lại kích thích đầu tư phát triển. Chính vì những điều như vậy mà ở các nước kinh tế thị trương phát triển và theo đuổi chính sách tự do hóa tài chính (financial liberalization), lãi suất được hình thành trên cơ sở thị trường, tức là giữa cung và cầu về vốn trên thị trương quyết định. 3. Phân loại lãi suất. 3.1 Phân loại theo nguồn sử dụng: - Lãi suất huy động: là loại lãi suất quy định tỉ lệ lãi phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng. - Lãi suất cho vay: là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho người cho vay. Về mặt lý thuyết, các mức lãi suất cho vay khác nhau được căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận bình quân của đối tượng đầu tư và thời hạn cho vay. Tuy nhiên với ý nghĩa là một công cụ điều tiêt vĩ mô nền kinh tế, điều đó không phải bao giờ cũng đúng, vì nó còn tùy thuộc vào mục tiêu chính trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Thông thường, lãi suất cho vay và lãi suất huy động có mối quan hệ được xác định như sau: Lãi suất cho vay  =  Lãi suất huy động  +  Chi phí  +  Rủi ro tối thiểu  +  lợi nhuận   Trong nội dung đề tài này, chúng tôi xin đề cập đến lãi suất dưới góc độ lãi suất cho vay đặt trong mối quan hệ với tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư và qui mô vốn đầu tư. 3.2. Phân loại theo giá trị thực: - Lãi suất danh nghĩa: là loại lãi suất được xác định cho mỗi kỳ hạn gửi hoặc vay, thể hiện trên quy ước giấy tờ được thoả thuận trước. - Lãi suất thực: là loại lãi suất xác định giá trị thực của các khoản lãi được trả hoặc thu được. Với in: lãi suất danh nghĩa ir: lãi suất thực tế ii: tỷ lệ lạm phát Ta có: Nếu ii < 10% ir = in - ii Nếu i ≥ 10% ir =  Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng, đối với người có tiền, nhờ đoán biết được lãi suất thực mà họ quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng hay mang đi kinh doanh trực tiếp. Đối với người cần vốn, nếu dự đoán được tương lai có lạm phát và trong suốt thời gian đó lãi suất cho vay không đổi hoặc có tăng nhưng tốc độ tăng không bằng lạm phát tăng thì họ có thể yên tâm vay để kinh doanh mà không sợ lỗ vì trượt giá khi trả nợ. 3.3. Phân loại theo phương pháp tính lãi: - Lãi suất đơn: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay ban đầu không gộp lãi vào tiền vay ban đầu để tính lãi thời hạn kế tiếp. Lãi suất đơn = số tiền lãi / số tiền gốc * 100% - Lãi suất kép: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay, số tiền vay này tăng lên do có gộp lãi qua từng thời kỳ cho vay (lãi mẹ đẻ lãi con). Công thức: I = ( 1+i)^1/t – 1 Trong đó I : lãi suất tại thời điểm t i: lãi suất đơn hàng năm t: chu kỳ tính lãi suất 3.4. Phân loại theo loại tiền: - Lãi suất nội tệ: là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng nội tệ (kể cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay). - Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất tính toán áp dụng cho đồng ngoại tệ. 3.5 .Phân loại theo độ dài thời gian: - Lãi suất ngắn hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản vay ngắn hạn, có thời hạn dưới 1 năm. - Lãi suất trung hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. - Lãi suất dài hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm. 4.Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất. 4.1 Cung cầu các quỹ cho vay: Lãi suất là giá cả của tín dụng, do vậy, bất kì sự thay đổi nào của cung cầu quĩ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ làm thay đổi lãi suất trên thị trường. Tuy nhiên, mức độ biến động của lãi suất ít nhiều còn phụ thuộc vào các quyết định của chính phủ và NHTW. Điều đó cho thấy, chúng ta có thể tác động vào cung hay cầu vốn để thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu chiến lược từng thời kì. 4.2 Lạm phát kì vọng: Khi lạm phát tăng, dù ở từng mức lãi suất riêng lẻ hay ở tất cả mọi lãi suất, yếu tố kích thích làm tăng cung quỹ cho vay gần như triệt tiêu bởi giá trị thực tế của vốn gốc và tiền lời thu được đã bị hao mòn do tác động của lạm phát.Theo Friedman, ông cho rằng trong mọi trường hợp tỷ lệ lạm phát của một nước là cực kỳ cao trong bất cứ thời kỳ kéo dài nào, thì tỷ lệ tăng trưởng của cung ứng tiền tệ là cực kỳ cao. Hình 1: Ảnh hưởng của lạm phát đến lãi suất Tóm lại, khi lạm phát dự tính tăng, lãi suất tăng. Điều này có một ý nghĩa quan trọng trong việc dự đoán lãi suất khi nền kinh tế có xu hướng lạm phát tăng.Trên cơ sở đó, có một chính sách lãi suất hợp lý. Khi lạm phát cao, nhà nước cần phải nâng lãi suất danh nghĩa, đảm bảo cho lãi suất thực dương, hoặc nhà nước tung vàng, ngoại tệ ra bán để kiềm chế lạm phát. Nhiều nhà kinh tế đã khuyến nghị rằng cuộc chiến chống lạm phát nhất định sẽ thất bại nếu chúng ta muốn hạ thấp lãi suất. 4.3 Bội chi ngân sách: Bội chi ngân sách của NHTW sẽ trực tiếp làm cho cầu của quĩ cho vay tăng làm tăng lãi suất. Bội chi ngân sách cũng tác động đến tâm lý dân chúng về mức gia tăng lạm phát gây ra áp lực làm tăng lạm phát. Về phía Chính phủ, khi bội chi NSNN thì Chính phủ thường gia tăng phát hành trái phiếy làm cung trái phiếu trên thị trường tăng, giá trị trái phiếu có xu hướng giảm xuống. Chính điều này đã làm cho lãi suất trên thị trường tăng lên. Về phía các NHTM, tài sản có của họ tăng ở mục trái phiếu Chính phủ, dự trữ vượt quá của họ bị giảm. Do đó, lãi suất ngân hàng tăng lên. 4.4 Những thay đổi về thuế: Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty luôn tác động đến lãi suất giống như khi thuế tác động đến giá cả hàng hóa. Đối với các doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp luôn tác động đến lợi nhuận của họ. Cho nên nếu các hình thức thuế này tăng lên cũng có nghĩa là nó sẽ điều tiết bớt một phần thu nhập của cá nhân doanh nghiệp làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, kinh doanh chứng khoán tức là các NHTM và các công ty Chứng khoán. Thông thường, ai cũng quan tâm đến thu nhập thực tế hơn thu nhập danh nghĩa thì đương nhiên các tổ chức kinh doanh chứng khóan phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những sự thay đổi về thuế làm lãi suất tăng lên. 4.5 Những thay đổi trong đời sống xã hội: Ngoài những yếu tố kể trên, sự thay đổi của lãi suất còn chịu tác động của những sự thay đổi trong đời sống xã hội. Ví dụ như sự phát triển của thị trường tài chính với các công cụ tài chính đa dạng. Thêm nữa, tình hình về kinh tế, chính trị của cũng như những biến động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới, các luồng vốn đầu tư ra vào đối các nước đều ít nhiều tác động đến sự thay đổi lãi suất của các nước khác. Tất cả các vấn đề này đều gợi ý cho tất cả những nghiên cứu, soạn thảo và điều hành về chính sách lãi suất phải có sự nhìn nhận và đánh giá một cách tổng thể trước khi đưa ra bất kì kết luận hoặc quyết định nào đến lãi suất. II. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư (RR- RATE OF RETURN) 1. Khái niệm và phân loại tỷ suất lợi nhuận. 1.1 Lợi nhuận thuần: Xét trên góc độ đầu tư, chỉ tiêu lợi nhuận thuần (W – Worth) được tính cho từng năm hay cho cả đời dự án và bình quân năm của đời dự án. Lợi nhuận thuần từng năm (Wi) được xác định như sau: Wi = Oi - Ci Trong đó: Oi : Doanh thu thuần năm i. Ci : Các chi phí năm i bao gồm tất cả các khoản phí có liên quan tới sản xuất, kinh doanh năm i: chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm, chi phí khấu hao, chi phí thuê tài sản, thuế thu nhập doanh nghiệp…. Lợi nhuận giữ 1vị trí quan trọng trong hoạt động tài chính doanh nghiệp, nó quyết định sống còn của bất kỳ doanh nghiệp nào. Vì vậy mà lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng hoạt động kinh doanh. Trước tiên nó là cái mà bất kỳ ông chủ doanh nghiệp nào cũng quan tâm, ẩn sau đó là động cơ để bất kỳ nhà đầu tư nào bỏ tiền đầu tư. Tuy vậy không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau vì: - Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ cùa các doanh nghiệp khác nhau dẫn đến lợi nhuận cũng khác nhau. - Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng khác nhau. Ở những doanh nghiệp lớn được đầu tư lớn hơn nhưng do hoạt động sản xuất, quản lý kém, nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn những doanh nghiệp quy mô nhỏ dù hoạt động tốt. Cho nên để đánh giá một cách đúng đắn chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối người ta còn sử dụng chỉ tiêu tương đối là tỷ suất lợi nhuận. 1.2 Tỷ suất lợi nhuận: Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận, mỗi loại lại có nội dung khác nhau, sau đây là một số cách phân loại và tính tỷ suất lợi nhuận: - Tỷ suất lợi nhuận trên vốn: là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận (trước thuế hoặc sau thuế) thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, các hoạt động khác với số vốn sử dụng bình quân trong kỳ (thường là 1 năm). Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận thu được hàng năm tính trên 1 đồng vốn bỏ ra. Trong đó ta đặc biệt quan tâm tới tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư, phần này sẽ được trình bày cụ thể ở sau. - Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận (trước thuế hoặc sau thuế) thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, các hoạt động khác với tổng doanh thu thuần thu về. Chỉ tiêu này phản ánh: mức lợi nhuận thu được trên 1 đồng doanh thu. - Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành: là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế của sản phẩm tiêu thụ so với giá thành của toàn bộ sản phẩm hàng hóa tiêu thụ. - Ngoài ra còn có 1 số chỉ tiêu khác như: +Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản ngắn hạn +Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản dài hạn +Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản +Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. 2. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư (RR – Rate Of Return) Chỉ tiêu này nếu tính cho từng năm ( RRi) nó phản ánh mức lợi nhuận thu được từng năm tính trên 1 đơn vị vốn đầu tư hoặc phản ánh mức độ thu hồi vốn đầu tư ban đầu nhờ lợi nhuận thu được hàng năm. * Nếu tính cho từng năm:  Trong đó: RRi : Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư năm i. Wipv : lợi nhuận thuần năm i tính đến thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động Ivo : Vốn đầu tư tính tại thời điểm dự án đi vào hoạt động. Dựa vào RRi từng năm mà ta có thể so sánh giữa các năm của đời dự án và thấy được sự khác biệt này ở các dự án khác nhau. * Nếu tính bình quân năm của cả đời dự án:  Trong đó: W : Lợi nhuận thuần bình quân năm của đời dự án theo mặt bằng hiện tại. Tuy nhiên trong thực tế để cho dễ tính ta có thể lấy lợi nhuận thuần của 1 năm hoạt động ở mức trung bình trong đời dự án thay cho lợi nhuận thuần bình quân năm của đời dự án. * Khi tính cho cả đời dự án, chỉ tiêu này lại phản ánh mức thu nhập thuần tính trên 1 đơn vị vốn đầu tư. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng để nhà đầu tư đưa ra lựa chọn quyết định đầu tư vào dự án nào. Nó phản ánh tốc độ thu hồi vốn, nếu tỷ suất lợi nhuận càng cao càng chứng tỏ khả năng thu hồi vốn càng nhanh và sau đó là lợi nhuận dư ra càng cao. Nếu cùng vốn đầu tư như nhau thì những dự án có tỷ suất lợi nhuận càng lớn càng thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư, bởi nó hàm chứa lợi nhuận càng cao - đó là mục đích cuối cùng của nhà đầu tư. Tuy nhiên chỉ dựa vào tỷ suất lợi nhuận thôi chưa đủ, nhà đầu tư quyết định đầu tư dựa trên hiệu quả biên của vốn ( tỷ suất lợi nhuận biên vốn đầu tư). Tỷ suất lợi nhuận biên vốn đầu tư phản ánh lợi nhuận tăng thêm khi gia tăng thêm 1 đơn vị vốn đầu tư. Điều đáng nói ở đây là tỷ suất lợi nhuận biên vốn đầu tư giảm dần theo quy mô vốn đầu tư. Dễ thấy để có được 1 đơn vị vốn đầu tư gia tăng đó nhà đầu tư phải đi vay, phải trả lãi suất cho vay (nếu bản thân vốn tự có thì đó là chi phí cơ hội của đồng vốn đó) và nó chính là giá của vốn vay. Do vậy nhà đầu tư sẽ tiếp tục đầu tư thêm vốn tới khi hiệu quả biên của vốn còn lớn hơn giá của vốn vay. 3. Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và ý nghĩa của việc tính tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư. Dựa vào công thức tính tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư , ta có thể nhận thấy rằng nó phụ thuộc vào lợi nhuận mà dự án đầu tư thu được hằng năm và tổng số vốn đầu tư ở thời điểm dự án đi vào hoạt động.Nếu vốn đầu tư ban đầu là cố định, thì nếu lợi nhuận qua các năm hoạt động càng cao , sẽ làm cho tỷ suất lợi nhuận cao.Khi tỷ suất lợi nhuận của dự án cao, hàm chứa một thông tin tích cực về hiệu quả hoạt động của dự án , đó là khả năng thu hồi vốn và thu lợi nhuận của dự án cao. Như vậy ,chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư phản ánh sức hấp dẫn của các dự án đầu tư.Tuy nhiên, Nhà đầu tư quyết định đầu tư không căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận thông thường mà căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận biên của vốn. Khi tỷ suất lợi nhuận biên lớn hơn lãi suất thì quyết định đầu tư,song tỷ suất lợi nhuận biên lại giảm dần khi tăng quy mô vốn đầu tư,do đó khi quyết định đầu tư cần xem xét tất cả các yếu tố liên quan. Ngoài ra , việc nghiên cứu và tính toán tỷ suất lợi nhuận còn có ý nghĩa to lớn đến quyết định đầu tư khi tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành có sự khác biệt. Cùng một lượng vốn, nhưng nếu bỏ vốn để đầu tư vào ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn sẽ giúp nhà đầu tư thu hồi vốn nhanh hơn và từ đó kiếm lời nhanh hơn. Do đó tỷ suất lợi nhuận không chỉ giúp nhà đầu tư lựa chọn giữa các dự án , mà còn giúp nhà đầu tư định hướng trong hoạt động đầu tư sao cho đạt hiệu quả cao nhất. III. Qui mô vốn đầu tư 1. Vốn đầu tư 1.1 Khái niệm và vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế Khái niệm: Theo luật đầu tư Việt Nam: vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp. Xét về phương diện toàn xã hội thì vốn đầu tư là toàn bộ giá trị nhân lực, tài lực được bỏ thêm vào cho hoạt động của toàn xã hội trong thời gian nhất định thường là một năm. Như vậy chúng ta có thể xem xét nguồn vốn đầu tư dưới nhiều góc độ khác nhau,dưới mỗi góc độ nguồn vốn đầu tư có biểu hiện riêng. Tuy nhiên về bản chất thì các nguồn vốn đầu tư đều là phần tiết kiệm hay tích lũy của toàn bộ nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra của cải vật chất thông qua hoạt động đầu tư. -Vai trò của vốn đầu tư: Vốn đầu tư phần lớn được chi dùng vào việc tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích phát triển và tăng trưởng nền kinh tế - xã hội của đất nước. Hoạt động đầu tư là một trong những lĩnh vực chuyển hóa của nền kinh tế và được coi là một bộ phận vận hành của nền sản xuất vật chất xã hội, để từ đó tạo nên tiền đề cơ sở vật chất và điều kiện sản xuất kinh doanh sinh lợi. Về mục tiêu đầu tư thường được xét trên 2 góc độ cơ bản sau: - Xét theo góc độ vĩ mô: Quyết định đầu tư phải gắn liền với tầm phát triển chung của nền kinh tế đất nước về các mặt kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, văn hóa xã hội, môi trường sinh thái… - Xét theo góc độ vi mô: Quyết định đầu tư cần xuất phát những mục tiêu cụ thể, nhất là về mặt tài chính với mục đích cơ bản là mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực. 1.2 Đặc trưng của vốn đầu tư. - Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu hình và vô hình. - Vốn phải vận động sinh lời. Để biến tiền thành vốn thì tiền phải thay đổi hình thái biểu hiện, vận động và có khả năng sinh lời. - Vốn cần được tích tụ và tập trung đến một mức nhất định mới có thể phát huy tác dụng. - Vốn phải gắn với ch
Luận văn liên quan