Trong tình hình đất nước hiện nay, sau khi đã là thành viên của WTO, Việt Nam chúng ta đang có những cơ hội và thách thức lớn trên con đường phát triển kinh tế đất nước. Đây là thời kì toàn cầu hoá kinh tế và người dân ta thường gọi là “thời buổi kinh tế thị trường”, điều này nói lên rằng kinh tế hiện nay có vai trò vô cùng quan trọng đối với tình hình chính trị xã hội hiện tại và việc quản lý tốt nền kinh tế hiện tại để cho đất nước không rơi vào khủng hoảng là nhiệm vụ của quan trọng của chính trị Việt Nam. Đây là mối quan hệ biện chứng cần được điều hoà một cách thoả đáng để phát triển kinh tế đất nước cũng như tầm và vị trí của chính trị Việt Nam trên trường quốc tế, nếu thiếu bất kì một trong hai yếu tố thì sẽ dẫn đến tình trạng đất nước lâm vào khủng hoảng, sẽ ảnh hưởng rất xấu đến xã hội.
“Thật tệ hại- chúng tôi đâu có liên quan gì đến Nga hay châu Á. Chúng tôi chỉ là một doanh nghiệp nhỏ trong nước đang cố phát triển nhưng chúng tôi đang bị ngáng đường vì cách thức chính phủ các nước ấy điều hành đất nước họ”- Trích từ “Chiếc Lexus và cây ô liu”. Qua đoạn trích trên ta thấy chính trị tác động rất lớn đến nền kinh tế. Đó là lý do mà em chọn nghiên cứu đề tài này, để làm rõ mối quan hệ kinh tế với chính trị và một số phương thức để nâng cao lãnh đạo của chính trị với kinh tế.
21 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1822 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ kinh tế với chính trị và một số phương thức để nâng cao lãnh đạo của chính trị với kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong tình hình đất nước hiện nay, sau khi đã là thành viên của WTO, Việt Nam chúng ta đang có những cơ hội và thách thức lớn trên con đường phát triển kinh tế đất nước. Đây là thời kì toàn cầu hoá kinh tế và người dân ta thường gọi là “thời buổi kinh tế thị trường”, điều này nói lên rằng kinh tế hiện nay có vai trò vô cùng quan trọng đối với tình hình chính trị xã hội hiện tại và việc quản lý tốt nền kinh tế hiện tại để cho đất nước không rơi vào khủng hoảng là nhiệm vụ của quan trọng của chính trị Việt Nam. Đây là mối quan hệ biện chứng cần được điều hoà một cách thoả đáng để phát triển kinh tế đất nước cũng như tầm và vị trí của chính trị Việt Nam trên trường quốc tế, nếu thiếu bất kì một trong hai yếu tố thì sẽ dẫn đến tình trạng đất nước lâm vào khủng hoảng, sẽ ảnh hưởng rất xấu đến xã hội.
“Thật tệ hại- chúng tôi đâu có liên quan gì đến Nga hay châu Á. Chúng tôi chỉ là một doanh nghiệp nhỏ trong nước đang cố phát triển nhưng chúng tôi đang bị ngáng đường vì cách thức chính phủ các nước ấy điều hành đất nước họ”- Trích từ “Chiếc Lexus và cây ô liu”. Qua đoạn trích trên ta thấy chính trị tác động rất lớn đến nền kinh tế. Đó là lý do mà em chọn nghiên cứu đề tài này, để làm rõ mối quan hệ kinh tế với chính trị và một số phương thức để nâng cao lãnh đạo của chính trị với kinh tế.
I/ Cơ sở lý luận:
1) Khái niệm:
Ta có nhiều quan niệm về chính trị nhưng nói một cách khái quát, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, mà tập trung là quyền lực nhà nước.
Kinh tế là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi của một chế độ xã hội, là tổng thể nên kinh tế quốc dân. Thực chất của kinh tế là lợi ích kinh tế, hiệu quả kinh tế, sự phát triển của lực lượng sản xuất.
2) Vai trò của kinh tế đối với chính trị:
Hoạt động kinh tế của con người xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người, thực chất kinh tế đây là sự sản xuất, nói rõ hơn là việc tìm kiếm thức ăn để nuôi sống bản thân con người. Cùng với sự phát triển của công cụ lao động và việc sản xuất của con người từ bản năng thành các hoạt động sản xuất có mục đích nhằm tạo ra nhiều của cải hơn và kinh tế ở đây mới dần đúng nghĩa của nó. Do sản xuất ra nhiều của cải dư thừa đã làm phát sinh quan hệ giai cấp và quan hệ giai cấp là biểu hiện đầu tiên của chính trị. Vậy kinh tế có trước chính trị.
Quy luật kinh tế khách quan quy định quy luật chính trị phải tuân theo. Ta giải thích điều này dựa vào quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nghĩa là lực lượng sản xuất phát triển thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất cũng biến đổi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến một mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có. Điều này đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất, thúc đẩy phương thức sản xuất mới ra đời. Điều này chỉ ra khi kinh tế phát triển đến một mức nào đó thì sẽ gây ra mâu thuẫn với chính trị và chính trị sẽ phải thay đổi để phù hợp với kinh tế. Như vậy kinh tế là nguồn gốc của mọi biến đổi, đảo lộn chính trị.
Ví dụ: Chúng ta thấy rằng sau năm 1986, chúng ta đổi mới nền kinh tế và cho ra đời nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Do yêu cầu khách quan của nền kinh tế này mà nhà nước đã chấp nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân mà trước kia không có. Hoặc việc gia nhập WTO, các công ty nhà nước không được sự bảo hộ của nhà nước như trước kia nữa sẽ là một thách thức lớn mà chính phủ ta phải chấp nhận.
Tiềm năng kinh tế của một quốc gia làm tiền đề cho uy tín trong nước và quan hệ quốc tế của một chính quyền, một đảng và các tổ chức xã hội. Thật vậy, nếu có tiềm năng kinh tế thì sẽ là “ một miếng đất màu mỡ” cho các nhà kinh tế trong nước và cả ngoài nước đầu tư để phát triển, cùng với đó là tầm của quốc gia đó trong quan hệ quốc tế được nâng lên đáng kể.
Con người tham gia vào các hoạt động xã hội, dù là trực tiếp sản xuất hay lao động sản xuất đi nữa thì cũng nhằm kiếm tiền và lợi nhuận cả, cái đó gọi là lợi ích kinh tế. Các nhà lãnh đạo đất nước tìm mọi cách cũng để tăng trường kinh tế cho quốc gia mình. Do đó mà ta thấy được động lực sâu xa nhất của chính trị là do lợi ích kinh tế tạo ra. Đơn cử là cuộc chiến Irag do Mỹ phát động với lý do chống khủng bố và lật đổ chính quyền tổng thống đương nhiệm. Sau khi chính quyền Irag sụp đổ thì chính phủ Mỹ chiếm ngay các mỏ dầu và khai thác thu lợi nhuận. Dù có chiến tranh thì suy cho cùng cũng là vì lợi ích kinh tế. Quả thật “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế” –Lênin.
3) Vai trò của chính trị với kinh tế:
Chính trị về thực chất là quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc trong quan hệ với quyền lực nhà nước. Trong đó, trước hết và cơ bản nhất là quan hệ lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế của từng chủ thể ấy chỉ được giải quyết bằng con đường nắm lấy sử dụng quyền lực chính trị nói chung, quyền lực nhà nước nói riêng, tác dụng vào các quá trình kinh tế xã hội làm cho nền kinh tế phát triển theo yêu cầu của mình. Cho nên, việc giải quyết vấn đề quyền lực chính trị sẽ trực tiếp tác động đến động lực của sự phát triển kinh tế. Vì vậy từ góc độ của kinh tế, vấn đề chính trị thực chất cũng là vấn đề kinh tế.
Chính trị là tiền đề cho kinh tế vận động và phát triển, chính trị có thể tiên đoán được kinh tế, vạch hướng phát triển kinh tế. Điều này được thể hiện thông qua các quyết định Đảng chính trị, của nhà nước. Chính trị có thể điều chỉnh cơ cấu các thành phần kinh tế trong phạm vi một quốc gia. Ngoài ra, chính trị có thể tiên đoán được kinh tế vì các nhà lãnh đạo quốc gia thì phải có tầm nhìn cao, rộng mà ta gọi là tầm nhìn chiến lược để đưa ra các giải pháp hiện tại và tương lai để phát triển kinh tế xã hội.
Mục tiêu và nhiệm vụ chính trị trong một số trường hợp chi phối đời sống kinh tế. Do đó với tính độc lập tương đối, chính trị tác động trở lại đối với kinh tế theo những chiều hướng khác nhau: thúc đẩy hoặc kiềm hãm. Ta giải thích điều này dễ dàng thông qua quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa bàn rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi ấy, quan hệ sản xuất sẽ tạo điều kiện, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ( lạc hậu, lỗi thời hoặc vượt mức quá xa) sẽ kiềm hãm, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Hay ta giả thích rõ hơn dựa trên sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng. Nghĩa là kiến trúc thượng tầng thực hiện bảo vệ, duy trì, củng cố, phát triển cơ sở hạ tầng đã “sinh” ra nó; hoặc đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũ cũng như kiến trúc thượng tầng cũ. Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng dưới nhiều hình thức khác nhau. Bản thân các yếu tố, các bộ phận của kiến trúc thượng tầng cũng tác động qua lại lẫn nhua. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng theo hai hướng kìm hãm hoặc phát triển cơ sở hạ tầng. Khi kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với các quy luật kinh tế khách quan, nó sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Ngược lại, sẽ kiềm hãm sự phát triển. So sánh với tình hình chính trị thế giới, thì bất cứ ở đâu chính trị ổn định sẽ kèm theo tăng trưởng kinh tế, những nước bất ổn chính trị thì kinh tế khủng hoảng hay phát triển chậm.
Chúng ta xét đến có ba loại nguồn lực chất xám, đó là nguồn chất xám chính trị (tư tưởng tham chính) làm chủ đạo, nguồn chất xám kinh doanh có tính khách quan tự nhiên và cuối cùng là nguồn chất xám khoa học trí thức chủ quan do đào tạo. Trong ba nguồn chất xám nêu trên, thì nguồn xám chính trị là quan trọng hơn cả, bởi nó mang tính chủ đạo. Một nhà nước tiến bộ có hiệu quả là một nhà nước có bộ máy lãnh đạo điều hành tốt trên mọi lĩnh vực, với các chính khách "siêu đẳng" phát huy hết khả năng chính trị, sẽ là điều kiện cho các nguồn chất xám khác phát huy. Như vậy chất xám chính trị hay nói cách khác là sự tác động của chính trị đối với kinh tế nói riêng và các lĩnh vực khác nói chung là vô cùng to lớn.
Nền tảng chính trị là cấu liên minh giữa gia cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đó là những đảm bảo để ổn định chính trị (như một yêu cầu khách quan của sự phát triển) và từng bước hoàn thiện cơ chế dân chủ của xã hội, đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Nền tảng đó là tiền đề, là môi trường cho sự phát triển kinh tế.
Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần cùng tồn tại với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước là chiến lược lâu dài của việc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tính tất yếu không phải là một sự áp đặt chính trị, mà là trong môi trường cạnh tranh với hành lang pháp lý do nhà nước định ra.
Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trong nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự bình đẳng trong kinh doanh, bình đẳng trong phân phối và hưởng thụ, khuyến khích tài năng và năng lực. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội, chăm lo đến những người có công với đất nước, có sự hy sinh trong chiến tranh giữ nước nên đã chịu thiệt thòi trong phát triển kinh tế. Nhà nước là trung tâm quyền lực chính trị thực hiện điều tiết, hạn chế sự chênh lệch tuyệt đối giữa các cực giàu nghèo.
II/ Thực trạng kinh tế- chính trị:
1) Chuyển đổi cơ cấu kinh tế:
Trong thời gian dài trước đổi mới, cũng như nhiều nước khác, chúng ta đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô với những đặc trưng chủ yếu là: xây dựng nền kinh tế khép kín về lực lượng sản xuất, không thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ, thực hiện cơ chế quan liêu bao cấp. Mô hình đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của đất nước thời kỳ có chiến tranh nhưng sau đó đã bộc lộ những khiếm khuyết, tình hình kinh tế xã hội đất nước ngày càng khó khăn.
Cuối năm 1986, tại đại hội VI, Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình. Về kinh tế, đại hội khẳng định phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh các đơn vị kinh tế sang hạch toán kinh doanh theo quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần kinh tế đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phát huy những kết quả đổi mới đã đạt được, sau nhiều năm nghiên cứu tìm tòi, tổng kết lý luận thực tiễn, đại hội IX (2001) đã chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, khẳng định chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là đường lối chiến lược nhất quán. Đại hội chỉ rõ đường lối kinh tế của Đảng ta là: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả bền vững.
2) Thành tựu kinh tế - chính trị:
Từ nền kinh tế bao cấp trì trệ bị bao vây cấm vận, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, đến hôm nay sau hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến vững vàng, tạo đà cho thế kỷ phát triển mới của đất nước. Trong hơn 20 năm qua, GDP của chúng ta đã tăng trưởng 7,5-8% mỗi năm. Chúng ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường và chúng ta đã thành công trong việc hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới. Thành công nhất đối với Việt Nam là trở thành thành viên của WTO và việc Việt Nam ký kết một loạt hiệp định hợp tác thương mại song phương với hầu hết các nước và các vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong quá khứ, chúng ta đã theo đuổi mô hình kinh tế của Liên Xô và các nước Đông Âu. Sau 20 năm cải cách, chúng ta đã đạt được sự tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục... Phúc lợi xã hội đã đến được với người nghèo và người nghèo được hưởng lợi từ sự phát triển. Tỷ lệ đói nghèo trong dân số đã giảm từ 60% trong năm 1993 xuống 14% và Việt Nam cũng đã đạt được hầu hết các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, thậm chí trước thời hạn.
Thành tích nổi bật là tăng trưởng kinh tế cao nhất so với tốc độ tăng của 12 năm trước đó, đạt được mức cao của mục tiêu do Quốc hội đề ra, thuộc loại cao so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế cao đã góp phần làm cho quy mô kinh tế lớn lên. GDP tính theo giá thực tế đạt khoảng 1.143 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người đạt khoảng 13,42 triệu đồng, tương đương với 71,5 tỉ USD và 839 USD/người! Đây là tín hiệu khả quan để có thể sớm thực hiện được mục tiêu thoát khỏi nước nghèo và kém phát triển có thu nhập thấp vào ngay năm tới.
Chúng ta đã đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng, kinh tế xã hội tăng trưởng nhanh, cơ sỡ vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Tốc độ tăng trường kinh tế cao, năm vừa rồi là 8.5%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể, nguồn lực phát triển trong các ngành, các vùng đã được phát huy. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện.
Thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Đảng đã quan tâm đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước. Luật doanh nghiệp nhà nước ra đời cho thấy sự tiến bộ rõ ràng về mặt quản lý kinh tế.
Cho đến những năm gần đây, doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta: năm 2000 doanh nghiệp Nhà nước đóng góp 39.5% giá trị sản lượng công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu, 39.2% tổng thu ngân sách nhà nước.
Kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã đã được đổi mới theo luật, chính sách Đảng và nhà nước. Các hợp tác xã đã chứng tỏ được rõ hơn vai trò, vị trí đối với kinh tế hộ gia đình trong sản xuất hàng hoá, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nhà nước. Từ năm 1988, hộ gia đình nông dân đã tự mình quyết định sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào, bán cho ai và tự quyết định cả giá bán. Địa vị nói trên của hộ gia đình không chỉ là kết quả của các biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, chế độ quản lý đất đai, mà cả các biện pháp cải cách vĩ mô như về giá cả, về thị trường…
Đẩy mạnh khu vực tư nhân: sau nhiều năm phân biệt đối xử với khu vực tư nhân, chính phủ đã hoàn toàn thay đổi cách đối xử và giờ đây nó khuyến khích khu vực tư nhân. Những đạo luật về các công ty và doanh nghiệp tư nhân đã chính thức thừa nhận khu vực đã có một thời kỳ là khu vực không chính thức này. Kinh tế tư nhân phát huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, nhất là sau khi có Luật Doanh nghiệp năm 2000. Đến nay cả nước đã có rất nhiều doanh nghiệp tư nhân mà đóng góp quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội từ nông dân thành công nhân, nhân viên văn phòng… Điển hình là công ty cà phê Trung Nguyên, một công ty tư nhân rất phát triển và thương hiệu cũng xuất hiện ở nhiều nước. Hàng năm kinh tế tư nhân đã đóng góp một lượng lớn vào ngân sách quốc gia.
Mở cửa cho đầu tư trực tiếp của nước ngoài: Việt Nam đã khá thành công trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong những năm qua. Đạo luật mới về đầu tư và những lần sửa lại sau đó chứng tỏ rằng chính phủ mở cửa cho khu vực tư nhân của nước ngoài tham gia. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có những bước phát triển quan trọng. Đến nay có rất nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép và có hiệu lực. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phát triển khá nhanh, bao quát nhiều lĩnh vực, đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước như: bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, phục vụ chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu hút công nghệ hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực, góp phần tiếp cận và mở rộng thị trường Quốc Tế, nâng cao năng lực xuất khẩu ở nước ta… Đã có những tập đoàn, công ty xuyên quốc gia lớn như Nhật Bản (Misubishi, Mitsui. . .), của Đức (Mercedes Benz, Siemens. . .), của Mỹ ( Mobil, carterrpila. . .), đầu tư voào nước ta. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà Nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để khẳng định vị trí của khu vực này hướng vào sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm theo yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như hội nhập kinh tế quốc tế và quan trọng là góp phần tăng thu nhập quốc dân.
Nhà nước đã từng bước tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của các cơ quan nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước của nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp chuyển từ quản lý cụ thể các hoạt động của nền kinh tế sang quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân; chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
Cơ cấu kinh tế ngành có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Nước ta từ chỗ chưa khai thác dầu đến nay đã khai thác có sản lượng khá cao gần 20 triệu tấn/năm; ngành công nghiệp chế tác chuếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp; công nghiệp xây dựng phát triển khá mạnh được thể hiện quaviệc các cao ốc cũng như chung cư cao tầng liên tục xuất hiện ở các thành phố lớn; sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng như một số ngành may mặc, thực phẩm… Ngành nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi đã chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng sản phẩm có năng suấ và hiệu quả kình tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất đời sống. Ngành bưu chính viễn thông và du lịch phát triển nhanh. Các dịch vù tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý… có bước phát triển khá.
Cơ cấu vùng kinh tế có sự chuyển biến theo hướng phát huy lợi thế của mình. Các vùng kinh tế khó khăn đang từng bước vươn lên, có chuyển biến tốt về đời sống kinh tế xã hội. Ở đây có vài thí dụ xác thực như khu công nghiệp Dung Quất ở Quảng Ngãi, điều này thể hiện sự chuyển đổi vùng kinh tế, nhà nước tạo điều kiện cho mỗi vùng đều có khả năng tự lực hoặc như thị xã Tam Kỳ thì nay là thành phố Tam Kỳ cho thấy tốc độ đô thị hoá tương đối nhanh.
Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ trong công nghiệp và dịch vụ. Điều này có ý nghĩa rất lớn quan trọng trong công cuộc đưa nước ta từ nước nông nghiệp sang nước công nghiệp phát triển.
Tóm lại, theo em từ khi đổi mới đến nay kinh tế nước ta đã đạt được hai thành công lớn do sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ.
Thứ nhất là việc xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu, bao cấp. Chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần. Đó là thành tựu vô cùng to lớn mà Đảng chính trị đã đạt được trong thời kỳ đổi mới. Điều này thể hiện sự sáng suốt, trí tuệ của Đảng cầm quyền hay nói cách khác là sự tác động có hiệu quả của chính trị với kinh tế.
Thứ hai là việc Việt Nam đã là thành viên của WTO- tổ chức thương mại thế giới. Mở ra cho kinh tế nước nhà nhiều cơ hội cũng như thể hiện sự kiên định, tài tình trong hơn 10 năm thương lượng ròng rã để trở thành thành viên chính thức WTO của chính phủ nước ta.
3) Những hạn chế- bất cập:
Cùng với những mặt tích cực thời kỳ đổi mới đem lại thì những mặt hạn chế cũng đã xuất hiện. Do chính sách mở cửa giao lưu kinh tế thì những văn hoá không lành mạnh ở các nước khác cũng đã xâm nhập vào Việt Nam. Có thể thấy bản chất người Á Đông từ bao đời nay là luôn vì cộng đồng, làm cùng cộn