• Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm phát một con số, chỉ số lạm phát dưới 10%. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này, nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người dân ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện là giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi và tiền vay không tăng cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượng lớn Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý yên tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro.
• Lạm phát phi mã xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với 2 hoặc 3 con số một năm. Ở mức này lạm phát làm cho giá cả tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế. Điều này sẽ làm người dân tích trữ hàng hóa, vàng bạc và không cho vay tiền ở mức lãi suất thông thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
• Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng rất nhanh, tiền lương thực tế giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn.
19 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2668 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Mối quan hệ tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I
LÝ THUYẾT LẠM PHÁT, THẤT NGHIỆP VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.
I. Lạm phát
1, Khái niệm lạm phát.
- Lạm phát: là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian.
- Tỷ lệ lạm phát:là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ tăng thêm hay giảm bớt của mức giá chung kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc. Nó được xác định theo công thức:
Gp(%)=
Trong đó: gp là tỷ lệ lạm phát (%)
Ip1 là chỉ số giá cả của kỳ nghiên cứu
Ip0 là chỉ số giả cả của kỳ được chọn làm gốc để so sánh
2, Phân loại lạm phát.
Căn cứ vào mức độ lạm phát:
Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm phát một con số, chỉ số lạm phát dưới 10%. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này, nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người dân ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện là giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi và tiền vay không tăng cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượng lớn…Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý yên tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro.
Lạm phát phi mã xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với 2 hoặc 3 con số một năm. Ở mức này lạm phát làm cho giá cả tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế. Điều này sẽ làm người dân tích trữ hàng hóa, vàng bạc và không cho vay tiền ở mức lãi suất thông thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng rất nhanh, tiền lương thực tế giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn.
Căn cứ vào định tính:
Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng :
* Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và đến nền kinh tế nói chung.
* Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động. Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra .
Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường:
* Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống, đến kinh tế .
* Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện. Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút.
3, Nguyên nhân gây ra lạm phát
Thứ nhất là lạm phát có thể xảy ra do tác động chủ quan của hệ thống tiền tệ-tín dụng-ngân hàng, bất cứ một sự biến đổi nhỏ nào của hệ thống này đều có tác động hoặc tăng hoặc giảm tỉ lệ lạm phát.
Thứ hai là lạm phát cũng chịu ảnh hưởng của một số điều kiện khách quan khác như chính trị xã hội, thiên tai bão lụt, tìnhtrạng thất nghiệp, nền sản xuất…
II. Thất nghiệp
1, Khái niệm
- Thất nghiệp: là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không tìm được việc làm.
- Tỷ lệ thất nghiệp: là phần trăm số người lao động không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động xã hội.
Cách tính tỷ lệ thất nghiệp
u = =
trong đó: U là số người thất nghiệp
L là lực lượng lao động
s là tỷ lệ mất việc
f là tỷ lệ tìm được việc
2, Phân loại thất nghiệp
2.1: Theo loại hình thất nghiệp
Thất nghiệp chia theo giới tính.
Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ
Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc
Thất nghiệp chia theo lứa tuổi…
2.2: Theo lý do thất nghiệp
Mất việc: người lao động không có việc làm do các đơn vị sản xuất kinh doanh cho thôi việc vì một lý do nào đó.
Bỏ việc: người lao động tự ý xin thôi việc vì những lý do chủ quan.
Nhập mới: những người lần đầu tiên bổ sung vào lực lượng lao động, nhưng chưa tìm được việc làm.
Tái nhập: những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
2.3: Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp
Thất nghiệp tạm thời: xảy ra khi người lao động đang trong thời gian tìm kiếm việc làm hoặc công việc làm khác tốt hơn, phù hợp với nhu cầu riêng của mình.
Thất nghiệp cơ cấu: xảy ra khi có sự thay đổi cơ cấu kinh tế làm mất cân đối cung và cầu cục bộ trên thị trường lao động.
Thất nghiệp thiếu cầu (thất nghiệp chu kỳ): xảy ra khi cầu chung về lao động giảm xuống.
Thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển: do các yếu tố ngoài thị trường gây ra.
2.4: Theo phân tích hiện đại về thất nghiệp:
Thất nghiệp tự nguyện: là những người tự nguyện không muốn làm việc do công việc và mức tiền công tương ứng chưa phù hợp với mong muốn của mình.
Thất nghiệp không tự nguyện: là những người muốn làm việc ở mức tiền công hiện hành nhưng vẫn không có việc làm.
Thất nghiệp tự nhiên: là thất nghiệp khi thị trường lao động đạt cân bằng.
III.Tăng trưởng kinh tế và công cụ phản ánh
1.Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ mỗi giai đoạn của một quốc gia.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế là tỷ lệ phần trăm thay đổi của GDP thực tế từ thời kỳ này so với thời kỳ trước.
gt =
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính cho toàn bộ nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Tăng trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc bằng số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng) – đó là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng tăng thêm của thời kỳ nghiên cứu so với mức sản lượng của thời kỳ trước đó hoặc kỳ gốc.
Tăng trưởng kinh tế còn được xem xét dưới góc độ chất lượng. Chất lượng tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế, thể hiện qua các đặc điểm sau:
+Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong một thời gian dài.
+Cơ cấu chuyển dịch kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả, phù hợp với thực tiễn nền kinh tế trong mỗi thời kỳ.
+Nền kinh tế có tính cạnh tranh cao.
+Tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo hài hòa đời sống kinh tế xã hội.
+Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái.
2.Các công cụ phản ánh
Để phản ánh tăng trưởng kinh tế , các nhà kinh tế sử dụng số liệu về GDP – một chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập của mọi người dân trong nền kinh tế .
Để phản ánh rõ hơn về tăng trưởng kinh tế, người ta thiết lập mô hình tăng trưởng kinh tế có tên là: “ mô hình solow “ . Mô hình solow chỉ ra ảnh hưởng của tiết kiệm, tỷ lệ tăng dân số và tiến bộ công nghệ với sự tăng trưởng theo thời gian của sản lượng. Mô hình còn xác định một vài nguyên nhân gây ra sự khác biệt lớn về mức sống giữa các nước. Sự tăng trưởng kinh tế của các nước không phải lúc nào cũng dương mà trong thời kì khủng hoảng , nền kinh tế suy thoái thì mức tăng trưởng kinh tế sẽ đạt giá trị âm.
Chương II
MỐI QUAN HỆ TỶ LỆ LẠM PHÁT, TỶ LỆ THẤT NGHIỆP VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM.
I. Thực trạng lạm phát, thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng ở Việt nam.
1.Thực trạng lạm phát
1.1 .Các nguyên nhân gây ra lạm phát ở VN.
Phần trước, chúng ta đã đề cập đến nguyên nhân lạm phát nói chung, phần này ta xét đến nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam ở thời điểm cụ thể.
Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam có nhiều.
- Thứ nhất : lạm phát nảy sinh từ trong chính các thể chế kinh tế quan liêu bao cấp, đóng cửa…, hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển các ngành có chi phí cao, tách rời cầu thị trường, cô lập với thế giới bên ngoài dẫn đến sự mất cân đối giữa cung và cầu, thu với chi ngân sách thể hiện nền kinh tế kém hiệu quả, các xí nghiệp làm ăn thua lỗ… Đó là những nguyên nhân dẫn đến lạm phát phi mã.
- Thứ hai : do sự điều hành sai lầm của bộ máy nhà nước, như xác định cơ cấu không xuất phát từ hiệu quả.
Sự đổi tiền và tăng giá năm 1985 là chính sách phá giá đồng tiền, làm giảm niềm tin của dân vào đồng tiền của nhà nước, chính sách lãi xuất thấp so với mức trượt giá làm cho người dân không muốn gửi tiết kiệm. Sự mất cân đối tài chính gây lạm phát qua kênh tín dụng, ngân hàng nhà nước luôn phải phát hành tiền để cân đối các nguồn vốn cho vay của ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các nghành kinh tế và xây dựng cơ bản ngày càng tăng. Nhà nước lại không chủ động trong việc cân bằng cung cầu hàng hoá, gây ra sự rối loạn trên thị trường, giá cả thay đổi một cách bất hợp lý so với giá quốc tế. Mặt hàng giá cả bị nhích lên do cơn sốt xi măng, thép, xăng dầu và ngoại tệ.
- Thứ ba : cho đến nay, xương sống của nền kinh tế Việt Nam vẫn là các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp này đóng góp 37% vào ngân sách nhà nước. Việc làm ăn của nhiều công ty xuất nhập khẩu hàng năm nhà nước phải bù lỗ, bù giá quá lớn chiếm gần 40% tổng số thu chi cho ngân sách.
- Thứ tư : môi trường đầu tư chậm cải tiến, tích luỹ ở trong nước còn ở mức thấp. Đầu tư nhũng công trình có vốn lớn, thời gian thi công kéo dài qua sức chịu đựng của nền kinh tế trong khi đó nguồn thu hạn hẹp, thất thu lớn. Tình hình đó làm cho nguồn tài chính quốc gia bị thâm hụt, không còn cách nào khác nhà nước buộc phải in tiền giấy bù đắp và đã gây ra lạm phát.
- Thứ năm : nguyên nhân từ cơ chế kinh tế độc quyền, cơ chế quan liêu bao cấp nặng nề. Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế. Các quan hệ tiền tệ không phát huy một cách đầy đủ tác dụng kích thích, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Cùng với những yếu kém của nền kinh tế, chúng ta còn đứng trước tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang lan rộng trong khu vực.
Bảng chỉ số lạm phát và tăng trưởng kinh tế từ năm 1998-2008:
Năm
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Lạm phát
5.8
4.8
6.8
6.8
7.0
7.3
7.6
8.5
8.17
8.5
6.36
Tăng trưởng
9.2
4.2
-1.6
-0.4
4.0
4.3
7.8
8.4
6.6
8.8
19.89
Nguồn ADB
Thời kỳ 1999-2002: là thời kỳ lạm phát ở mức rất thấp thậm chí là thiểu phát. Thời kỳ này tốc độ tăng trưởng cũng rất thấp. Năm 1998-1999 tốc độ tăng trưởng giảm xuống mức dưới 6% là mức đáng lo ngại đối với một nền kinh tế có tốc độ tăng dân số 2% một năm, tỷ lệ tăng năng suất lao động 5-7% và tỷ lệ thất nghiệp là 7%. Nguyên nhân chủ yếu của thời kỳ này là do chính sách thắt chặt tiền tệ và cuộc khủng hoảng tài chính.
Từ năm 2004 lạm phát đột ngột tăng tốc. Chỉ số giá tiêu dùng tăng 9.5%(2004); 8.4%(2005);6.6%(2006) . Để tránh tác động của khủng hoảng Việt Nam đã thực hiện chính sách kích cầu đi liền với việc gia tăng tín dụng và cuối cùng là in tiền. Do vậy đây là nguyên nhân gây ra sự gia tăng đến mức báo động giá vào năm 2003 và tăng trên 10% vào năm 2004.
Ngoài ra, những nguyên nhân gây ra lạm phát ở VN không nằm ngoài khuôn khổ lý thuyết. Tuy nhiên, nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở VN thời gian qua được cho là do cung tiền và do chi phí đẩy.
Lạm phát do chi phí đẩy
Đây là nguyên nhân dễ nhận thấy đối với lạm phát của Việt Nam trong thời gian qua. Với một nền kinh tế khá mở, kim ngạch nhập khẩu lên đến 90% GDP (2008), sự biến động của giá cả trên thế giới tác động ngay đến giá cả trong nước. Năm 2007 và nửa đầu năm 2008, giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thế giới biến động mạnh, đặc biệt là giá dầu thô, lương thực, thực phẩm và các nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp. Sự tăng giá của hầu hết các hàng hóa trong nước góp phần làm cho lạm phát ở Việt Nam bùng phát.
Tuy nhiên, nguyên nhân do chi phí tăng lên của hầu hết các hàng hóa trên thế giới không thể giải thích hoàn toàn cho lạm phát ở Việt Nam. Quan sát bảng sau chúng ta thấy cùng chịu một sự tăng giá như nhau nhưng hầu hết các hàng hóa trên thế giới đều không chịu mức lạm phát cao như Việt Nam. Như vậy ngoài nguyên nhân do sự tăng giá của các hàng hóa (lạm phát do chi phí đẩy) nguyên nhân rất quan trọng gây nên bùng nổ lạm phát ở Việt Nam chính là lạm phát do nguyên nhân cung tiền.
(Chịu sự tăng giá của hàng hóa trên thế giới như nhau nhưng lạm phát ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các quốc gia khác)
Lạm phát do cung tiền ở Việt Nam
Trên đây chúng ta xét đến yếu tố chi phí đẩy dù yếu tố này không giải thích được hoàn toàn nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam. Trong thời gian qua, cung tiền được mọi người xem là nguyên nhân căn bản gây nên lạm phát ở Việt Nam, sau đây chúng ta xem xét yếu tố này.
Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tiềm năng phát triển. Vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Năm 2007, vốn đầu tư trực tiếp (FDI) giải ngân lên tới 8 tỷ USD, năm 2008 lên tới 11.7 tỷ USD, chiếm gần 1/3 lượng vốn đầu tư trong nền kinh tế. Dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) cũng tăng lên nhanh chóng, trong năm 2007 ước tính có trên 7 tỷ USD từ dòng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam. Vốn viện trợ phát triển (ODA) hàng năm Việt Nam nhận được khoảng 2 tỷ USD (năm 2007 là 2 tỷ USD, 2008 2.2 tỷ USD). Kiều hối chuyển về Việt Nam hàng năm từ 5-7 tỷ USD. Mặc dù, Việt Nam luôn bị thâm hụt thương mại cao nhưng khoản thâm hụt này ít hơn các dòng tiền chuyển vào Việt Nam dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai vẫn thặng dư. Dự trữ ngoại tệ của ngân hàng thương mại liên tục tăng cao (năm 2006 tăng 4.6 tỷ USD, năm 2007 tăng 10.6 tỷ USD, năm 2008 2.4 tỷ USD). Dự trữ ngoại tệ của NHNN tăng đồng nghĩa với một lượng tiền tương ứng VND được bơm vào nền kinh tế, mặt khác NHNN không thực hiện biện pháp Vô hiệu hóa lượng tiền bơm vào nền kinh tế do vậy tiền trong nền kinh tế tăng lên.
Ngoài ra, năm 2006 và 2007 đánh dấu năm phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng, tăng trưởng tín dụng năm 2006 đạt 50.18%, năm 2007 đạt 49.1%. Như vậy tăng trưởng tín dụng cao và dòng tiền mua ngoại tệ của NHNN đã làm cho cung tiền tăng mạnh dẫn đến lạm phát.
Lạm phát do nguyên nhân tiền tệ trên thực tế
Lạm phát cao của Việt Nam trong thời gian qua được cho là nguyên nhân tiền tệ. Thực tế quan sát biểu đồ hình dưới giữa tăng trưởng cung tiền và lạm phát không có một mối quan hệ chặt với nhau rõ ràng. Các kiểm định thống kê cũng không thấy có tương quan đáng tin cậy giữa tăng trưởng M2 và lạm phát.
Nguồn: WB và Vietstock dự báo
Tuy nhiên, chúng ta cũng không đủ cơ sở để phủ định được lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và cung tiền đối với Việt Nam bởi một số nguyên nhân sau:
-Thứ nhất: Số liệu thống kê về lạm phát và cung tiền ở Việt Nam không đủ lớn, số liệu tính theo năm đáng tin cậy mà chúng tôi có được từ năm 1992 đến nay. Với chuỗi số liệu như vậy không đủ lớn cho việc làm các kiểm định thống kê cho kết quả có ý nghĩa.
-Thứ hai: Một biến số rất khó đo lường hiện nay là thay đổi trong vòng quay tiền (ΔV). Trong các mô hình lý thuyết giả định ΔV = 0, tuy nhiên thực tế vòng quay tiền tệ biến động khá lớn qua các thời điểm khác nhau. Tốc độ lưu thông tiền tệ sẽ bị giảm mạnh khi nền kinh tế rơi vào giai đoạn khó khăn. Lúc này người dân mất lòng tin vào sự phục hồi kinh tế do đó họ hạn chế chi tiêu làm cho vòng quay tiền giảm. Chẳng hạn vào năm 2000 vòng quay tiền tệ là 1.95, năm 2002 chỉ còn 1.53 giảm 21.5%. Dù cho cung tiền tăng cao hơn bình thường nhưng không gây ra lạm phát. Khi đó lượng tăng trưởng cung tiền sẽ chuyển tác động đến việc gia tăng mức giá trong dài hạn có thể từ 8 đến 12 tháng trong một số giai đoạn có thể cao hơn. Chính vì những lý do này chúng ta thấy trong thực tế có giai đoạn mặc dù tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2 khá cao nhưng lại không gây ra lạm phát tức thời.
Để làm sáng tỏ thêm một số luận điểm nêu trên, sau đây chúng ta xem xét quan hệ giữa cung tiền và lạm phát. Chúng ta xét tăng trưởng tín dụng và lạm phát trong khoảng thời gian ngắn hơn:
Nguồn: IFM và VietstoctFinance
Biểu đồ cho chúng ta thấy giữa 3 yếu tố này có một sự tương quan khá chặt chẽ nhưng thường có độ trễ nhất định. Lạm phát thường tăng hay giảm sau khi cung tiền tăng giảm từ 3-5. Các kiểm định thống kê chúng tôi thực hiện cũng cho thấy lạm phát và độ trễ tăng trưởng tín dụng 4-7 tháng có quan hệ khá chặt. Đây là một minh chứng cho quan điểm cung tiền gây nên lạm phát cao ở Việt Nam.
Vậy tại sao có kết quả khác nhau khi xem xét mối quan hệ cung tiền và lạm phát theo tháng và năm? Nguyên nhân xuất phát từ sự khác biệt giữa biến vòng quay tiền. Khi xét trong một khoảng thời gian dài vòng quay tiền giữa các năm có thể rất khác nhau đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế có nhiều biến động. Đối với dữ liệu tháng chúng ta có thể có một số lượng quan sát đủ lớn chỉ trong thời gian ngắn, trong giai đoạn ngắn sự thay đổi vòng quay tiền rất nhỏ nên sự thay đổi cung tiền sẽ phản ánh vào biến động giá trên thị trường.
Những yếu tố khác
Về mặt lý thuyết có rất nhiều yếu tố gây nên lạm phát, tùy từng giai đoạn mà một nguyên nhân nào đó có thể đóng vai trò chính. Nhiều khi các nguyên nhân có thể đan xen lẫn nhau rất khó tách các yếu một cách rạch ròi. Theo quan điểm của chúng tôi một số nguyên nhân sâu xa gây nên lạm phát ở Việt Nam đó là sự thiếu hiệu quả trong đầu tư, và tình trạng thâm hụt ngân sách cao thường xuyên.
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ đầu tư/GDP cao nhất thế giới. Trong những năm gần đây tỷ lệ đầu tư/GDP luôn lớn hơn 40% trong khi đó tốc độ tăng trưởng chỉ đạt ở trung bình chưa đến 8%. ICOR của Việt Nam lớn hơn 5 lần, cao hơn nhiều so với các nước Đông Á, và các quốc gia khác cùng trình độ phát triển như Việt Nam hiện nay. Trong một nghiên cứu trước đây của chúng tôi có tựa đề “Các vấn đề tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” chúng tôi đã nêu ra các nguyên nhân yếu kém trong cơ cấu nền kinh tế. Chính những yếu kém này là những nguyên nhân sâu xa cho bất ổn vĩ mô và lạm phát cao.
Tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài trong nhiều năm qua, áp lực in tiền tài trợ cho thâm hụt ngân sách cũng gây nên áp lực cho lạm phát. Ngoài ra, việc kiểm soát giá hàng hóa và neo tỷ giá ngoại tệ một cách khá cứng nhắc cũng gây ra những xáo trộn kéo dài cho nền kinh tế. Tỷ giá hay giá hàng hóa không phản ánh giá thị trường do kiểm soát hoặc độc quyền đều ẩn chứa khả năng lạm phát tiềm tàng trong tương lai.
1. 2. Các tác động của lạm phát
1.2.1. Tác động đến lĩnh vực sản xuất :
Ở vị trí các nhà sản xuất ,khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu
vào và đầu ra biến động không ngừng gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình
sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm cho vô hiệu hoá hoạt động hoạch
toán kinh doanh .Hiệu quả sản xuất – kinh doanh ở một vài doanh nghiệp có
thể thay đổi gây ra những biến động về kinh tế .Nếu một doanh nghiệp nào
đó có tỷ xuất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
Tuy nhiên ,xét ở góc độ nào đó ,khi tỷ lệ lạm phát thấp ,không gây
ảnh hưởng đến kinh tế thì có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế .Từ đó sẽ
khuyến khích các doanh nghiệp đi vay để mở rộng sản xuất ,sản lượng sẽ
tăng lên .Ngoài ra cũng khuyến khích tiêu dùng ,cầu tiêu dùng tăng lên ,do
đó hàng hoá bán chạy và cũng làm sản lượng tăng .
1.2.2. Đối với lĩnh vực lưu thông:
Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan
hiếm hàng hoá .Lúc này những người thừa tiền và giàu có dùng tiền của
mình để vơ vét và thu gom hàng hoá ,tài sản ,tình trạng này càng làm mất
cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường giá cả
hàng hoá tăng lên nhiều hơn .
Ngoài ra khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh
vực sản xuất sẽ gặp phải những rủi ro cao .Do có nhiều người tham gia vào
lĩnh vực lưu thông lên lĩnh vực này trở lên hỗn loạn .Tiền vừa ở trong tay
người bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu