Đề tài Môi trường đầu tư quốc tế tại Việt Nam và những giải pháp hoàn thiện

Các nhà đầu tư trên thế giới cũng như trong nước đều đứng trước việc ra quyết định là nên đầu tư ở đâu cho đồng vốn của họ sinh lợi, cho dù đó là vốn ODA, FDI hoặc là các nguồn vốn nước ngoài mang tính thương mại khác. Kinh nghiệm thu hút các nguồn tài chính nước ngoài lẫn trong nước chỉ ra rằng: quyết định của các nhà đầu tư lại phụ thuộc rất nhiều vào môi trường đầu tư. Điều đó có nghĩa là đối với nước ngoài, họ sẽ đặt lên bàn hội nghị những thông tin về môi trường đầu tư giữa các nước khác nhau, sau đó lựa chọn một môi trường đầu tư của một nước có tính cạnh tranh nhất. Đối với trong nước, môi trường đầu tư quyết định sức đầu tư của các nhà kinh doanh. Vì vậy, các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam, nơi thường xuyên nói quá nhiều về “giải pháp” thì giải pháp của mọi giải pháp trong việc thu hút nguồn tài chính vẫn là nỗ lực tạo ra một môi trường đầu tư cạnh tranh nhằm tạo ra một nền kinh tế cạnh tranh trong việc thu hút các nguồn lực quyết định tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo. Theo World Bank 2004, môi trường đầu tư là tập hợp những yếu tố đặc thù địa phương bao gồm hai thành phần chính là chính sách của chính phủ và các nhân tố khác liên quan đến qui mô thị trường và ưu thế địa lý. Nói một cách chi tiết hơn, môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố về pháp luật, kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và các yếu tố cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường, các lợi thế của một quốc gia ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các thành phần này định hình cho các cơ hội và động lực để doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả, tạo việc làm và mở rộng sản xuất, đồng thời sẽ tác động đến ba khía cạnh liên quan đến nhà đầu tư là chi phí cơ hội của vốn đầu tư, mức độ rủi ro trong đầu tư và những rào cản về cạnh tranh trong quá trình đầu tư . Dựa vào việc cân nhắc ba khía cạnh này nhà đầu tư sẽ xác định những cơ hội và động lực đầu tư đến một quốc gia hay một địa phương nào đó. Tất cả những cải cách chính sách từ phía chính phủ chẳng hạn như việc ban hành các Luật, cải cách thủ tục hành chính, rào cản thuế quan và quyền lợi bảo vệ nhà đầu tư chung qui vẫn là cố gắng tạo ra một môi trường đầu tư ít rủi ro, chi phí cơ hội thấp và ít cản trở nhà đầu tư trong quá trình hoạt động mang tính cạnh tranh của họ.

doc84 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5340 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Môi trường đầu tư quốc tế tại Việt Nam và những giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I : NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ: 1.1 Khái niệm về môi trường đầu tư quốc tế: Các nhà đầu tư trên thế giới cũng như trong nước đều đứng trước việc ra quyết định là nên đầu tư ở đâu cho đồng vốn của họ sinh lợi, cho dù đó là vốn ODA, FDI hoặc là các nguồn vốn nước ngoài mang tính thương mại khác. Kinh nghiệm thu hút các nguồn tài chính nước ngoài lẫn trong nước chỉ ra rằng: quyết định của các nhà đầu tư lại phụ thuộc rất nhiều vào môi trường đầu tư. Điều đó có nghĩa là đối với nước ngoài, họ sẽ đặt lên bàn hội nghị những thông tin về môi trường đầu tư giữa các nước khác nhau, sau đó lựa chọn một môi trường đầu tư của một nước có tính cạnh tranh nhất. Đối với trong nước, môi trường đầu tư quyết định sức đầu tư của các nhà kinh doanh. Vì vậy, các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam, nơi thường xuyên nói quá nhiều về “giải pháp” thì giải pháp của mọi giải pháp trong việc thu hút nguồn tài chính vẫn là nỗ lực tạo ra một môi trường đầu tư cạnh tranh nhằm tạo ra một nền kinh tế cạnh tranh trong việc thu hút các nguồn lực quyết định tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo. Theo World Bank 2004, môi trường đầu tư là tập hợp những yếu tố đặc thù địa phương bao gồm hai thành phần chính là chính sách của chính phủ và các nhân tố khác liên quan đến qui mô thị trường và ưu thế địa lý. Nói một cách chi tiết hơn, môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố về pháp luật, kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và các yếu tố cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường, các lợi thế của một quốc gia ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các thành phần này định hình cho các cơ hội và động lực để doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả, tạo việc làm và mở rộng sản xuất, đồng thời sẽ tác động đến ba khía cạnh liên quan đến nhà đầu tư là chi phí cơ hội của vốn đầu tư, mức độ rủi ro trong đầu tư và những rào cản về cạnh tranh trong quá trình đầu tư . Dựa vào việc cân nhắc ba khía cạnh này nhà đầu tư sẽ xác định những cơ hội và động lực đầu tư đến một quốc gia hay một địa phương nào đó. Tất cả những cải cách chính sách từ phía chính phủ chẳng hạn như việc ban hành các Luật, cải cách thủ tục hành chính, rào cản thuế quan và quyền lợi bảo vệ nhà đầu tư chung qui vẫn là cố gắng tạo ra một môi trường đầu tư ít rủi ro, chi phí cơ hội thấp và ít cản trở nhà đầu tư trong quá trình hoạt động mang tính cạnh tranh của họ. 1.2. Các bộ phận cấu thành môi trường đầu tư quốc tế: Mọi hoạt động đầu tư đều có cùng một mục đích là để thu lợi nhuận, vì thế môi trường đầu tư hấp dẫn phải là một môi trường có hiệu quả đầu tư cao, mức độ rủi ro thấp. Điều này lại chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như: chính sách, cơ chế ưu đãi đầu tư của nước chủ nhà, điều kiện phát triển về cơ sở hạ tầng kinh tế, mức độ hoàn thiện về thể chế hành chính - pháp lý, khả năng ổn định về mặt chính trị - xã hội, độ mở của nền kinh tế, sự phát triển của hệ thống thị trường ... Các nhân tố trên có mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau, vì vậy, để nâng cao chất lượng và hiệu quả của môi trường đầu tư, nhất thiết phải quan tâm xử lý đồng bộ các nhân tố ảnh hưởng trên. Như vậy, nhìn nhận một cách phân tách vấn đề trong mối quan hệ tổng hòa giữa các yếu tố, có thể thấy rằng nhân tố chính sách và hành vi chính phủ là thành phần quan trọng nhất bao trùm và điều chỉnh các khía cạnh khác. Thông qua chính sách và hành vi của chính phủ sẽ tác động rất lớn đến khả năng làm thay đổi chi phí, rủi ro và rào cản cạnh tranh của các nhà đầu tư. Thành phần khác như yếu tố địa lý, văn hóa, qui mô thị trường tác động được coi như là những biến ngoại sinh mà chính phủ chỉ có khả năng tác động giới hạn. Một nước đông dân hơn có khả năng thu hút đầu tư nhiều hơn từ phía cầu thị trường, hoặc một nước nhiều tài nguyên sẽ hấp dẫn tốt hơn các nhà đầu tư từ các nước đã phát triển. Tuy nhiên, cho dù yếu tố địa lý có ưu thế đến đâu đi chăng nữa thì cũng phải thừa nhận một điều rằng vai trò của chính phủ cực kỳ quan trọng trong việc tạo ra một môi trường đầu tư tốt (Easterly và Levine 2003). Có thể lấy ví dụ là, Singapore và Hồng Kông là những nước qui mô thị trường trong nước nhỏ bé nhưng họ có khả năng rất lớn trong việc thu hút các nguồn tài chính quốc tế; Nhật Bản là một nước ít tài nguyên ngay từ điểm xuất phát nhưng đến nay lại trở thành một nước có khả năng đầu tư ra các nước khác trên thế giới. Đồng thời, năng lực quản lý của chính phủ sẽ tác động lên môi trường cạnh tranh của các nhà đầu tư thông qua bốn nội dung: Ổn định vĩ mô và an toàn, luật lệ và cách đánh thuế ( Môi trường chính trị - xã hội, môi trường hành chính, môi trường thương mại - kinh tế, môi trường pháp lý), tài chính và cơ sở hạ tầng (Môi trường tài chính và môi trường cơ sở hạ tầng), và sau cùng là thị trường lao động ( Môi trường lao động). Nếu chính phủ có năng lực phối hợp tốt bốn nội dung này sẽ có khẳ năng kiểm soát những hành vi trục lợi, tạo ra một một độ tin cậy về sự ổn định của chính sách chính phủ, tranh thủ được sự ủng hộ toàn xã hội, và xây dựng những thể chế hiệu quả can thiệp thất bại thị trường. Kiểm soát hành vi trục lợi không những có tác dụng làm giảm chi phí cơ hội đầu tư và làm giảm rủi ro trong đầu tư mà còn có tác động tích cực đến việc nâng cao tính cạnh tranh trong môi trường đầu tư. 1.3. Tác động của môi trường đầu tư quốc tế đến khả năng thu hút vốn đầu tư 1.3.1. Chính sách và hành vi của chính phủ 1. 3.1.1. Môi trường chính trị xã hội: Kinh tế và chính trị là hai nhóm yếu tố có liên quan mật thiết với nhau. Chính trị ổn định là điều kiện cho kinh tế phát triển và ngược lại, kinh tế phát triển là yếu tố quan trọng góp phần làm cho chính trị ổn định. Chính trị ảnh hưởng đến các việc đầu tư trước hết là thông qua kinh tế. Dòng vốn quốc tế có xu hướng di chuyển ra khỏi các nước có tình hình chính trị bất ổn, nơi thường xảy ra các cuộc biểu tình của nhân dân và thường xuyên xảy ra những cuộc đảo chính bất ngờ. Những quốc gia có nguy cơ khủng bố cao cũng bị các nhà đầu tư dần dần rút vốn ra để tập trung đầu tư vào những nước có tình hình chính trị - xã hội và an ninh quốc gia được đảm bảo. Lấy một điển hình đó chính là tình hình chính trị bất ổn của Thái đã làm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế kéo theo đó là sự sụt giảm các dự án đầu tư vào đất nước này. Điển hình là ngành công nghiệp du lịch, chiếm tới gần 7% GDP và cũng là ngành sử dụng nhiều nhân công ở Thái Lan, bị thiệt hại mạnh. Năm 2009, ngành du lịch Thái Lan thất thu hơn 200 tỷ Baht do bất ổn chính trị và tình hình trong năm 2010 vẫn không mấy khả quan hơn. Để khắc phục tình trạng này, ngành du lịch Thái Lan đang nỗ lực thúc đẩy du lịch nội địa để bù đắp sự sụt giảm du khách quốc tế. Các doanh nhân nước ngoài đang làm ăn tại Thái Lan lo ngại bất ổn chính trị tại Thái Lan sẽ bùng phát trở lại và có khả năng kéo dài, làm ảnh hưởng đến kế hoạch làm ăn. Và nếu các cuộc biểu tình dẫn tới đối đầu với quân đội và cảnh sát và xung đột leo thang thì sẽ dẫn tới những hậu quả khó lường. Đây cũng chính là nhân tố khiến các nhà đầu tư chuyển hướng đầu tư từ Thái Lan sang các nước có tình hình chính trị - xã hội ổn định hơn, như Việt Nam. Ngược lại, với nền chính trị ổn định, Singapore đã thu hút được các nhà đầu tư nước ngòai và cũng lập kỷ lục mới khi lượng FDI đổ vào khoảng 37 tỷ USD. Một yếu tố có ảnh hưởng lớn đến khả năng thu hút đầu tư nước ngoài là thể chế chính trị của các quốc gia. Khi các chính phủ thay thế nhau thì có thể dẫn tới sự thay đổi đáng kể về chính sách kinh tế. Một chính phủ đương nhiệm cũng có thể từ bỏ đường lối và chính sách cũ. Quốc gia theo thể chế đa Đảng hay một Đảng duy nhất có tác động rất lớn đến hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài tại quốc gia đó. Thể chế chính trị quyết định đường lối phát triển của một quốc gia, thay đổi đường lối chính trị có thể làm thay đổi các chính sách ưu đãi dành cho nhà đầu tư. Là một trong những yếu tố quan trọng của chính trị có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp nước ngoài, tính hiệu quả của sự giúp đỡ từ phía các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước cũng là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh của các công ty kinh doanh đầu tư nước ngoài. Đó là cách làm việc hiệu quả của hải quan, các thông tin đầy đủ về thị trường và các nhân tố khác thuận lợi cho hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp. Thực tế bộ máy nhà nước là yếu tố quan trọng có tác động mạnh mẽ đến các doanh nghiệp. Các nhà kinh doanh thường xem xét bộ máy nhà nước của quốc gia đầu tư rồi mới cho hoạt động kinh doanh. Đó là yếu tố quan trọng và thực tế các chính sách hoạt động và làm việc của bộ máy nhà nước có quyết định đến hoạt động đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Một lần nữa, Thái Lan là một ví dụ điển hình cho vấn đề này.  Các cuộc đảo chính diễn ra thường xuyên và kéo dài làm cho các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại khi đầu tư vào Thái Lan bởi rủi ro mất vốn là rất lớn. Bên cạnh đó, chế độ đa đảng ở Thái cũng gây cản trở cho các nhà đầu tư. Việc tranh giành quyền lực giữa các Đảng phái này là nguyên nhân chính gây ra các cuộc đảo chính, thay đổi đường lối thể chế cầm quyền không có lợi cho đầu tư. 1.3.1.2. Môi trường pháp lý và hành chính: Môi trường pháp lý ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư thông qua tính đầy đủ và sự đồng bộ của hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật khác nhau tác động khác nhau đối với các hoạt động kinh doanh, sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật trong một quốc gia sẽ tạo ra nhiều kẽ hở mà doanh nghiệp có thể tận dụng.Và dĩ nhiên điều này sẽ thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài nhưng có ảnh hưởng không tốt đến thu nhập và quyền kiểm soát của chính quyền nước tiếp nhận đầu tư. Thể chế nào có sự bình ổn cao sẽ có thể tạo điều kiện tốt cho việc hoạt động kinh doanh và ngược lại các thể chế không ổn định, xảy ra xung đột sẽ tác động xấu tới hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ đó. Những luật mới thường đưa ra những trở ngại và thách thức mới. Những nhà kinh doanh quốc tế luôn phải ở vào tư thế sẵn sàng đối phó với những thử thách mới, cơ hội mới khi có luật mới ban hành cùng với những thay đổi thường xuyên và nhanh chóng trong các tiêu chuẩn về kinh tế - xã hội, và các tiêu chuẩn về pháp luật. Một thị trường đã bị đóng có thể đột nhiên được mở cửa v.v… do sự thay đổi của luật pháp. Các doanh nghiệp nước ngoài luôn ưu tiên cho các quốc gia có môi trường pháp lý minh bạch, công khai. Sự thiếu minh bạch cũng đồng nghĩa với tỉ lệ tham nhũng của quốc gia cao làm cho các nhà đầu tư lo ngại khi tiến hành kinh doanh. Chi phí kinh doanh sẽ lớn hơn làm giảm lợi nhuận cũng như hiệu quả kinh doanh. Khả năng thực thi pháp luật và khả năng của pháp luật bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư của quốc gia được đầu tư càng mạnh thì vốn đầu tư thu hút dược càng nhiều, tạo ra sự an tâm cho nhà đầu tư. Một môi trường pháp lý chặt chẽ kết hợp với các thủ tục hành chính hải quan đơn giản, là yếu tố quan trọng nhất giúp cho nguồn vốn đầu tư nước ngoài của quốc gia ngày càng tăng Việc tạo lập môi trường hành chính hiệu quả cũng là yếu tố mà các nhà đầu tư rất quan tâm và tìm hiểu trước khi quyết định đầu tư vào một quốc gia khác. Xây dựng các thể chế công hiệu quả nhằm khắc phục các thất bại thị trường cũng góp phần cải thiện môi trường đầu tư. Phân cấp trong thu hút đầu tư và tăng cường năng lực điều hành của chính phủ địa phương, xây dựng một chính phủ điện tử là ba cách tiếp cận để tạo ra các thể chế hiệu quả. Chính phủ trung ương có thể thiết kế các chính sách tốt đẹp nhưng chính phủ địa phương sẽ lại là chủ thể thực hiện những chính sách này. Chính phủ địa phương lại bao gồm nhiều thể chế khác nhau và những khuyết điểm của từng thể chế có thể làm nản lòng các nhà đầu tư. Năng lực của các thể chế địa phương bị giới hạn trong quá trình triển khai chính sách. Giới hạn này bao gồm cán bộ tác nghiệp yếu kém, thể chế thiếu thông tin, thể chế không được dân chúng và các nhà đầu tư ủng hộ do những hành vi thao túng trục lợi và việc cung cấp dịch vụ công kém hiệu quả. Chính phủ trung ương có thể tạo ra những phân cấp cho chính phủ địa phương trong quá trình thu hút vốn đầu tư. Sự phân cấp này tạo ra lợi ích là chính phủ địa phương dễ dàng tiếp cận nhanh chóng với các nhà đầu tư. Nhưng cũng chính sự phân cấp này lại tạo ra một chi phí lớn đó là khả năng kiểm soát cân đối lợi ích quốc gia sẽ bị yếu đi khi mà các địa phương khuyến khích các nguồn đầu tư theo kiểu “tâm lý bầy đàn”. Có nghĩa là từng địa phương có nhiều dự án đầu tư hơn do phân cấp, nhưng có thể tổng hợp các dự án đầu tư này đã làm mất cân đối giữa cung và cầu trong tiêu thụ sản phẩm cũng như nguồn lực ở phạm vi quốc gia. Như vậy một thể chế hiệu quả cấp địa phương yêu cầu vừa phải triển khai tốt các chính sách khuyến khích đầu tư của chính phủ trung ương và đồng thời phù hợp với các điều kiện đặc thù của địa phương. 1.3.1.3 Môi trường thương mại - kinh tế: Chính sách kinh tế: sự tin cậy về sự ổn định chính sách của chính phủ rất cần thiết cho những định hướng đầu tư của các nhà đầu tư. Điều này bởi lẽ khi nhà đầu tư ra quyết định sẽ không chỉ dựa vào những luật lệ và qui định hiện tại của chính phủ nước mình đầu tư, họ còn dự báo tính ổn định và nhất quán những luật lệ và qui định này trong tương lai như thế nào. Sự không chắc chắn về hành vi và chính sách của chính phủ sẽ khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài trở nên nghi ngờ vì bất kỳ một dự án nào cũng được mong đợi duy trì một cách ổn định và hiệu quả trong suốt vòng đời dự án. Do đó nếu không có một sự đảm bảo sự nhất quán và ổn định của chính phủ trong các quyết định chính sách thì cho dù một nước giảm lãi suất thấp hơn các quốc gia khác nhưng nếu có những bất định về chính sách thì cũng không thể huy động được dòng tài chính nước ngoài. Một khía cạnh khác cần được xem xét, đó là tùy động cơ của chủ đầu tư nước ngoài mà có thể có các yếu tố sau của môi trường kinh tế ảnh hưởng đến dòng vốn FDI: Các chủ đầu tư có động cơ tìm kiếm thị trường sẽ quan tâm đến các yếu tố như dung lượng thị trường và thu nhập bình quân đầu người; tốc độ tăng trưởng của thị trường; khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới; các sở thích đặc biệt của người tiêu dùng ở nước nhận đầu tư và cơ cấu thị trường. Bên cạnh thị trường trong nước, các chủ đầu tư nước ngoài ngày càng quan tâm nhiều hơn đến khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới của hàng hóa sản xuất ra tại nước nhận đầu tư. Các chủ đầu tư tìm kiếm nguồn nguyên liệu và tài sản sẽ quan tâm đến tài nguyên thiên nhiên; lao động chưa qua đào tạo với giá rẻ; lao động có tay nghề; công nghệ, phát minh, sáng chế và các tài sản do doanh nghiệp sáng tạo ra (thương hiệu, ...); cơ sở hạ tầng phần cứng (cảng, đường bộ, hệ thống cung cấp năng lượng, mạng lưới viễn thông). Không phải lúc nào các chủ đầu tư nước ngoài cũng đem công nghệ cùng với vốn đi đầu tư ở các nước khác. Bản thân họ cũng kỳ vọng tìm được những công nghệ nghệ, phát minh, sáng chế và các tài sản mới do doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư sáng tạo ra và sở hữu độc quyền. Điều này đặc biệt đúng với các dòng vốn FDI chảy giữa các nước công nghiệp phát triển với nhau. Các chủ đầu tư tìm kiếm hiệu quả sẽ chú trọng đến chi phí mua sắm các nguồn tài nguyên và tài sản được đề cập ở phần trên, có cân đối với năng suất lao động; các chi phí đầu vào khác như chi phí vận chuyển và thông tin liên lạc đi/ đến hoặc trong nước nhận đầu tư; chi phí mua bán thành phẩm; tham gia các hiệp định hội nhập khu vực tạo thuận lợi cho việc thành lập mạng lưới các doanh nghiệp toàn khu vực. Chẳng hạn, Bộ Kinh tế Công nghiệp Nhật Bản (METI) cho rằng các nhà đầu tư Nhật Bản đánh giá về khả năng thu hút đầu tư của một nước dựa trên 3 tiêu chí: ( Giá nhân công lao động thấp hơn so với các nước khác có cùng điều kiện kinh tế - xã hội. ( Tình hình xuất khẩu sản phẩm sang nước thứ ba có mức tăng trưởng cao hay không. Tiêu chí này đánh giá khả năng chiếm lĩnh thị trường thế giới của sản phẩm quốc gia. ( Cơ hội tăng trưởng của thị trường nội địa càng cao càng chứng tỏ sức hút của thị trường đối với người tiêu dùng trong nước và quốc tế. 1.3.1.4. Môi trường tài chính Trong xu hướng hội nhập toàn cầu hóa ngày nay, mở cửa nền kinh thế để thu hút vốn đầu tư là chìa khóa dẫn đến thành công của các quốc gia, không phân biệt là giàu hay nghèo. Tuy nhiên, số lượng vốn thu hút nhiều hay ít còn tùy thuộc vào mức độ mở cửa của nền kinh tế, đặc biệt là thị trường tài chính rộng hay hẹp và các chỉ tiêu đánh giá nền tài chính quốc gia: cán cân thương mại quốc tế, cán cân thanh toán quốc tế, nợ quốc gia, tỉ lệ lạm phát… Chẳng hạn như yếu tố tỉ lệ lạm phát: ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. Quốc gia có tỉ lệ lạm phát cao, không ổn định kéo theo sự mất giá của đồng tiền và tỷ giá hối đoái không ổn định làm cho khả năng chuyển đổi của đồng tiền kém thì tỉ lệ đầu tư nước ngoài không cao và ngược lại. Các doanh nghiệp ít khi chọn môi trường có tỉ lệ lạm phát cao vì khi đó, giá của hàng hóa nguyên vật liệu tăng, chi phí kinh doanh tăng làm giảm lợi nhuận. Bên cạnh mặt tiêu cực lạm phát cao cũng có tác động tích cực làm tăng nhu cầu về bất động sản, chứng khoán, vàng…- vì tâm lý bất ổn về giá trị đồng tiền của người tiêu dùng, kéo theo sự phát triển tăng vọt của các thị trường này thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư. Ngoài ra, cón một số yếu tố khác đóng góp vào môi trường tài chính ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư như: ( Các chính sách tài chính: chính sách thu chi tài chính, lãi suất, chuyển lợi nhuận về nước… ( Vấn đề cân đối ngoại tệ để đảm bảo nhập khẩu phục vụ cho hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư. ( Tỷ giá hối đoái và khả năng điều tiết của nhà nước. ( Khả năng tự do chuyển đổi của đồng tiền. ( Hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. ( Sự hoạt động của các ngân hàng tài chính: thị trường chứng khoán, bất động sản ( … Nhìn chung, Nhà nước có chức năng quản lý và điều tiết mọi hoạt động thị trường tài chính, nơi diễn ra các hoạt động tài chính liên quan đến vận động nguồn vốn trong xã hội. Nhà nước tác động vào thị trường tài chính dựa trên 3 mặt : tạo môi trường pháp lý và môi trường kinh tế của sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính đồng thời giám sát hoạt động của thị trường tài chính . Môi trường có tốt, ổn định thì nguồn vốn mới sống khỏe và phát triển tốt được. Đầu tư của nhà nước, sự tăng giá của nhà nước vào kinh tế sẽ làm tăng đầu tư tư nhân. Thông qua việc sử dụng tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ, có thể kích thích lòng tin, tính lạc quan của nhà đầu tư. Trong đó, lạm phát là biện pháp hữu hiệu trong việc kích thích sự tăng giá cả của thị trường. Để bù đắp thiếu hụt ngân sách, chủ trương phát hành tiền hoặc phát hành trái phiếu, tăng khả năng vay mượn từ các ngân hàng thương mại, tăng lượng cung tiền nhằm giảm rủi ro đầu tư đồng thời tăng cường khả năng dự đoán chi phí cơ hội cho việc đầu tư. 1.3.1.5. Môi trường cơ sở hạ tầng: Một đất nước có cơ sở hạ tầng tốt không những giúp đẩy mạnh khả năng phát triển kinh tế của quốc gia mà còn làm tăng mức độ hấp dẫn đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài. Chẳng hạn, hệ thống giao thông thuận tiện giúp cho nhà đầu tư an tâm hơn khi tiến hành đầu tư kinh doanh. với mạng lưới giao thông tiện lợi, các nhà đầu tư sẽ không bỏ ra những khoản chi phí “thừa” để chi trả cho công việc vận chuyển tốn kém và những khoản phát sinh do trễ hẹn hợp đồng do hệ thống yếu kém mang lại. Bên cạnh đó, hệ thống thông tin liên lạc, mạng internet, mạng dcom... tốt sẽ tạo tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư, đặc biệt trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, chỉ cần một sự chậm trễ hoặc gián đoạn trong thông tin có thể gây tổn thấ hàng tỉ đồng cho các doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh. 1.3.1.6. Môi trường lao động: Một trong những yếu tố góp phần đáng kể tạo nên tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư là nguồn lao động tiềm tàng mỗi quốc gia. Nguồn lao động có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư tại một quốc gia. Khi đánh giá về nguồn lao động người ta xem xét dưới hai góc độ: s
Luận văn liên quan