Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực được quan tâm hàng đầu trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu của đất nước trong việc tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển mang tính bền vững của quốc gia.
Nghị quyết Hội nghị TW II - Khoá VIII của BCH TW Đảng chỉ rõ:
“Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải đẩy mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”.
Tại điều 2 chương I, luật Giáo dục nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 cũng xác định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Giáo dục đạo đức là một trong những mặt giáo dục quan trọng trong mục tiêu giáo dục của nhà trường ở nước ta hiện nay. Nó có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con người - nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển của đất nước. Đối với dân tộc Việt Nam: đạo đức là vốn quý của con người, cái “đức” là nền tảng, là căn bản của con người. Sinh thời Bác Hồ cũng đã dạy: “Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó. Người có tài mà không có đức thì tài cũng thành vô dụng”.
Trong chỉ thị về nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục năm học 2009 - 2010 vừa ban hành, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh, đây là năm học đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục. Trong đó đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách và kỹ năng sống cho học sinh. Điểm nổi bật trong ba cuộc vận động năm học này là nâng cao đạo đức của học sinh và giáo viên, lồng ghép nội dung cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" vào giảng dạy một số môn học chính khoá và các hoạt động ngoại khoá ở các cấp học, trình độ đào tạo từ năm học 2009 – 2010. Như vậy, có thể thấy rằng, vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung và cho học sinh THCS nói riêng đã và đang được Đảng, Nhà nước, toàn ngành giáo dục và toàn thể xã hội đặc biệt quan tâm.
Hơn 20 năm đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Bộ mặt đất nước có nhiều đổi thay, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Người dân có nhiều điều kiện chăm lo sự học hành cho con cái họ hơn. Hệ thống giáo dục nước ta cũng đạt được những thành tựu đáng tự hào trong việc góp phần bồi dưỡng nhân tài và đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
Tuy nhiên, khi đời sống kinh tế - xã hội có sự thay đổi, với các chính sách mở cửa, hội nhập với thế giới cũng có những tác động nhất định cả ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới nhà trường phổ thông. Với học sinh, các em có nhiếu điều kiện tiếp xúc với nhiều thông tin và các luồng văn hoá khác nhau từ nước ngoài. Vì vậy, những quan điểm đạo đức truyền thống cũng bị mai một phần nào. Một số ít học sinh đã quên đi những thuần phong mỹ tục, bản sắc văn hoá quý báu của dân tộc, thay vào đó là lối sống thực dụng, đua đòi, ích kỷ, Phát biểu tại một hội thảo về giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển khẳng định: “Vấn đề giáo dục đạo đức trong học sinh hiện rất cấp bách vì xã hội phức tạp hơn. Những giá trị đạo đức đang thay đổi và thay đổi ngày càng nhanh”. Còn theo ông Phùng Khắc Bình, Vụ trưởng Vụ Công tác học sinh, sinh viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo thì “tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống, tội phạm và bạo lực trong một bộ phận học sinh xảy ra gây lo lắng, bức xúc trong dư luận xã hội. Đây là điều trăn trở thường xuyên của ngành giáo dục.”
Đối với học sinh của trường THCS Bình Ngọc nơi bản thân tôi đang công tác, cũng không nằm ngoài tình trạng chung đó. Thực tế trong những năm qua cho thấy, một bộ phận không nhỏ học sinh có lối sống đua đòi, tha hóa về phẩm chất, hành vi đạo đức. Tình trạng học sinh vi phạm đạo đức như đánh nhau, vô lễ, xúc phạm giáo viên tuần nào cũng xảy ra. Mặc dù các thầy cô cũng đã làm nhiều, nói nhiều, công sức bỏ ra không ít, nhưng kết quả thu được thì vẫn rất hạn chế. Như vậy, vấn đề đặt ra và mang tính cấp thiết hiện nay đó là phải có biện pháp giáo dục đạo đức nhằm góp phần giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh.
Xuất phát từ những đòi hỏi cấp bách của công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới sự nghiệp giáo dục. Nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường, và đặc biệt sau khi được tham gia lớp bồi dưởng cán bộ quản lý giáo dục, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THCS''. Với đề tài này, bản thân tôi mong muốn được cùng đồng chí, đồng nghiệp chia sẻ nhửng kinh nghiệm trong công tác giáo dục và quản lý giáo dục đạo đức trong nhà trường, nhằm góp một phần nhỏ vào công cuộc đổi mới của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
32 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 16326 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THCS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực được quan tâm hàng đầu trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu của đất nước trong việc tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển mang tính bền vững của quốc gia.
Nghị quyết Hội nghị TW II - Khoá VIII của BCH TW Đảng chỉ rõ:
“Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải đẩy mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”.
Tại điều 2 chương I, luật Giáo dục nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 cũng xác định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Giáo dục đạo đức là một trong những mặt giáo dục quan trọng trong mục tiêu giáo dục của nhà trường ở nước ta hiện nay. Nó có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con người - nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển của đất nước. Đối với dân tộc Việt Nam: đạo đức là vốn quý của con người, cái “đức” là nền tảng, là căn bản của con người. Sinh thời Bác Hồ cũng đã dạy: “Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó. Người có tài mà không có đức thì tài cũng thành vô dụng”.
Trong chỉ thị về nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục năm học 2009 - 2010 vừa ban hành, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh, đây là năm học đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục. Trong đó đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách và kỹ năng sống cho học sinh. Điểm nổi bật trong ba cuộc vận động năm học này là nâng cao đạo đức của học sinh và giáo viên, lồng ghép nội dung cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" vào giảng dạy một số môn học chính khoá và các hoạt động ngoại khoá ở các cấp học, trình độ đào tạo từ năm học 2009 – 2010. Như vậy, có thể thấy rằng, vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung và cho học sinh THCS nói riêng đã và đang được Đảng, Nhà nước, toàn ngành giáo dục và toàn thể xã hội đặc biệt quan tâm.
Hơn 20 năm đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Bộ mặt đất nước có nhiều đổi thay, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Người dân có nhiều điều kiện chăm lo sự học hành cho con cái họ hơn. Hệ thống giáo dục nước ta cũng đạt được những thành tựu đáng tự hào trong việc góp phần bồi dưỡng nhân tài và đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
Tuy nhiên, khi đời sống kinh tế - xã hội có sự thay đổi, với các chính sách mở cửa, hội nhập với thế giới cũng có những tác động nhất định cả ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới nhà trường phổ thông. Với học sinh, các em có nhiếu điều kiện tiếp xúc với nhiều thông tin và các luồng văn hoá khác nhau từ nước ngoài. Vì vậy, những quan điểm đạo đức truyền thống cũng bị mai một phần nào. Một số ít học sinh đã quên đi những thuần phong mỹ tục, bản sắc văn hoá quý báu của dân tộc, thay vào đó là lối sống thực dụng, đua đòi, ích kỷ, … Phát biểu tại một hội thảo về giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển khẳng định: “Vấn đề giáo dục đạo đức trong học sinh hiện rất cấp bách vì xã hội phức tạp hơn. Những giá trị đạo đức đang thay đổi và thay đổi ngày càng nhanh”. Còn theo ông Phùng Khắc Bình, Vụ trưởng Vụ Công tác học sinh, sinh viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo thì “tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống, tội phạm và bạo lực trong một bộ phận học sinh xảy ra gây lo lắng, bức xúc trong dư luận xã hội. Đây là điều trăn trở thường xuyên của ngành giáo dục.”
Đối với học sinh của trường THCS Bình Ngọc nơi bản thân tôi đang công tác, cũng không nằm ngoài tình trạng chung đó. Thực tế trong những năm qua cho thấy, một bộ phận không nhỏ học sinh có lối sống đua đòi, tha hóa về phẩm chất, hành vi đạo đức. Tình trạng học sinh vi phạm đạo đức như đánh nhau, vô lễ, xúc phạm giáo viên tuần nào cũng xảy ra. Mặc dù các thầy cô cũng đã làm nhiều, nói nhiều, công sức bỏ ra không ít, nhưng kết quả thu được thì vẫn rất hạn chế. Như vậy, vấn đề đặt ra và mang tính cấp thiết hiện nay đó là phải có biện pháp giáo dục đạo đức nhằm góp phần giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh.
Xuất phát từ những đòi hỏi cấp bách của công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới sự nghiệp giáo dục. Nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường, và đặc biệt sau khi được tham gia lớp bồi dưởng cán bộ quản lý giáo dục, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THCS''. Với đề tài này, bản thân tôi mong muốn được cùng đồng chí, đồng nghiệp chia sẻ nhửng kinh nghiệm trong công tác giáo dục và quản lý giáo dục đạo đức trong nhà trường, nhằm góp một phần nhỏ vào công cuộc đổi mới của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
II. MỤC ĐÍCH - PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
1. Mục đích nghiên cứu
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn ở trường THCS Bình Ngọc nơi bản thân tôi đang công tác, đề xuất một số biện pháp thích hợp và khả thi về công tác giáo dục đạo đức nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục của cấp THCS và ngành giáo dục và đào tạo hiện nay.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số lí luận có liên quan đến công tác giáo dục đạo đức học sinh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng của việc giáo dục đạo đức học sinh của trường THCS Bình Ngọc - Móng Cái - Quảng Ninh.
- Đề xuất một số biện pháp chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức học sinh của trường THCS Bình Ngọc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Các biện pháp chỉ đạo công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường phổ thông.
- Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi của trường THCS Bình Ngọc trong năm học gần đây nhất.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, bản thân tôi đã sử dụng một số phương pháp sau đây:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: nghiên cứu các văn kiện của Đại hội Đảng các cấp, Luật Giáo dục, tham khảo một số tài liệu có liên quan đến tiểu luận.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Căn cứ vào tình hình nhà trường và thực tế kinh nghiệm của bản thân trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trong trường để viết.
- Các phương pháp hỗ trợ: Lập bảng, biểu, phân tích số liệu thống kê.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. VỊ TRÍ, ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG NHIỆM VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH.
1.1. Đạo đức và các chức năng của đạo đức
Khái niệm đạo đức
Theo quan niệm phương Đông, trong các học thuyết của Phật giáo, của Đạo giáo, của Nho giáo đều lấy đạo đức làm cơ sở trong đối nhân xử thế và tự rèn luyện mình, khuyên con người làm điều thiện, tránh điều ác. Các học thuyết ấy đề xuất các quy tắc, các chuẩn mực, những ràng buộc trong các hoạt động sống của con người. Có thể nói, khái niệm đạo đức ở phương Đông có nghĩa là đạo làm người, bao gồm rất nhiều chuẩn mực về các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, an em, làng xóm bạn bè, tu thân, dưỡng tâm, rèn luyện khi tiết…theo những định hướng giá trị nhất định.
Còn ở phương Tây, người ta quan niệm: đạo đức là lĩnh vực của con người mà hành vi, các mối quan tâm, những tình cảm được chia sẻ giữa người này và người khác theo những mục tiêu và tiêu chí nhất định có liên quan đến tự do và trật tự phức tạp của cộng đồng.
Trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C. Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng một học thuyết có tính cách mạng, gắn quan hệ đạo đức với các phương thức sản xuất. Khi phương thức sản xuất thay đổi thì các quan niệm đạo đức dù nhanh hay chậm cũng thay đổi theo. Vì thế, đạo đức trước hết là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh các quan hệ lợi ích, thiện ác của xã hội. Trên cơ sở đó, các nhà kinh điển sang lập chủ nghĩa Mác đã quan niệm:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ người và người và con người với tự nhiên.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng bị quy định bởi tồn tại xã hội và chịu ảnh hưởng của các hình thái khác của ý thức xã hội, nhưng do tính độc lập tương đối của mình, đạo đức có sự tác động trở lại tồn tại xã hội và các hình thái khác thong qua hoạt động của con người.
1.1.2. Chức năng ý thức đạo đức
Là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, của ý thức xã hội, đạo đức một mặt quy định bởi cơ sở hạ tầng, của tồn tại xã hội, mặt khác nó cũng tác động tích cực trở lại đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội đó. Vì vậy, ý thức đạo đức có chức năng to lớn, tác động theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm phát triển xã hội. Đạo đức có những chức năng sau:
Chức năng giáo dục: đạo đức thực hiện chức năng giáo dục tức là chức năng làm hình thành nhân cách vừa thông qua quá trình giáo dục, tự giáo dục, vừa thông qua thực tiễn họat động đạo đức của con người.
Chức năng điều chỉnh hành vi của cá nhân, của cộng đồng và là công cụ tự điều chỉnh mối quan hệ giữa người và người trong xã hội.
Chức năng nhận thức của đạo đức: thể hiện ở sự đánh giá giá trị thiện ( hoặc ác) của các hiện tượng, các sự kiện xã hội, các hành vi, tư tưởng, tình cảm của con người.
Các chức năng này của đạo đức không tác động tách rời nhau, chức này là tiền đề, điều kiện cho chức năng kia và ngược lại.
1.2. Vị trí và đặc điểm của công tác giáo dục ý thức đạo đức cho học sinh
1.2.1. Vị trí và ý nghĩa của công tác giáo dục ý thức đạo đức cho học sinh
Giáo dục ý thức đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ: của cá nhân với xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người xung quanh và của cá nhân với chính mình.
Trong tất cả các mặt giáo dục ý thức đạo đức giữ một vị trí hết sức quan trọng. Vì Hồ Chủ Tịch đã nêu: “ Dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức Cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng, nếu không có đạo đức Cách mạng thì có tài cũng vô dụng ”
Giáo dục ý thức đạo đức còn có ý nghĩa lâu dài, được thực hiện thường xuyên và trong mọi tình huống chứ không phải chỉ được thực hiện khi có tình hình phức tạp hoặc có những đòi hỏi cấp bách.
Trong nhà trường giáo dục ý thức đạo đức là mặt giáo dục phải được đặc biệt coi trọng, nếu công tác này được coi trọng thì chất lượng giáo dục toàn diện sẽ được nâng lên vì ý thức đạo đức có mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác.
Để thực hiện những yêu cầu về nội dung giáo dục ý thức đạo đức cho học sinh trong trường THCS thì: Vai trò của tập thể sư phạm giữ một vị trí quan trọng có tính quyết định, trong đó vai trò của Hiệu trưởng, người quản lý chỉ đạo tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục của nhà trường là quan trọng nhất. Đồng thời, cấu trúc và nội dung chương trình môn giáo dục công dân cũng góp phần không nhỏ đối với công tác này.
1.2.2. Đặc điểm của công tác giáo dục ý thức đạo đức cho học sinh
Giáo dục ý thức đạo đức đòi hỏi không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ khái niệm tri thức đạo đức, mà quan trọng hơn là kết quả giáo dục phải được thể hiện thành tình cảm, niềm tin, hành động thực tế của học sinh.
Quá trình dạy học chủ yếu được tiến hành bằng các giờ học trên lớp; còn quá trình giáo dục ý thức đạo đức không chỉ bó hẹp trong giờ lên lớp mà nó được thể hiện thông qua tất cả các hoạt động có thể có trong nhà trường .
Đối với học sinh THCS, kết quả của công tác giáo dục ý thức đạo đức vẫn còn phụ thuộc rất lớn vào nhân cách người thầy, gương đạo đức của người thầy sẽ tác động quan trọng vào việc học tập, rèn luyện của các em.
Để giáo dục ý thức đạo đức cho học sinh có hiệu quả, yếu tố tập thể giữ vai trò hết sức quan trọng. Công tác giáo dục ý thức đạo đức cho học sinh chỉ đạt kết quả tốt khi nó có sự tác động đồng thời của các lực lượng giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội.
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh đòi hỏi người thầy phải nắm vững các đặc điểm Tâm-Sinh-Lí lứa tuổi của học sinh, nắm vững cá tính, hoàn cảnh sống cụ thể của từng em để định ra sự tác động thích hợp.
Giáo dục ý thức đạo đức là một quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi phải có công phu, kiên trì, liên tục và lặp đi lặp lại nhiều lần.
1.3. Những nhiệm vụ và nguyên tắc cơ bản của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay.
1.3.1. Những nhiệm vụ của công tác giáo dục ý thức đạo dức cho học sinh
Để hình thành phẩm chất đạo đức cho học sinh, công tác giáo dục ý thức đạo đức nói chung và giảng dạy các môn, đặc biệt là môn giáo dục nói riêng trong nhà trường phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Hình thành cho học sinh ý thức các hành vi ứng xử của bản thân phải phù hợp với lợi ích xã hội; giúp học sinh lĩnh hội được một cách đúng mức các chuẩn mực đạo đức được quy định.
Biến kiến thức đạo đức thành niềm tin, nhu cầu của mỗi cá nhân để đảm bảo các hành vi cá nhân được thực hiện.
Bồi dưỡng tình cảm đạo đức, tính tích cực và bền vững, và các phẩm chất ý chí để đảm bảo cho hành vi luôn theo đúng các yêu cầu đạo đức.
Rèn luyện thói quen hành vi đạo đức để trở thành bản tính tự nhiên của mỗi cá nhân và duy trì lâu bền thói quen này.
Giáo dục văn hóa ứng xử đúng mực thể hiện sự tôn trọng và quý trọng lẫn nhau của con người.
1.3.2.Những nguyên tắc giáo dục ý thức đạo đức cho học sinh
Giáo dục học sinh trong thực tiễn sinh động của xã hội.
Giáo dục theo nguyên tắc tập thể.
Giáo dục bằng cách thuyết phục và phát huy mạnh mẽ tính tự giác của học sinh.
Giáo dục ý thức đạo đức cho học sinh phải lấy việc phát huy ưu điểm là chính.
Đặc điểm tâm lý của học sinh THCS là thích được khen, thích được thầy, bạn bè, cha mẹ biết đến những mặt tốt, những ưu điểm, những thành tích của mình. Nếu giáo dục đạo đức quá nhấn mạnh về khuyết điểm của học sinh, luôn nêu cái xấu, những cái chưa tốt trong đạo đức của các em thì sẽ đễ đẩy các em vào tình trạng tiêu cực, chán nản, thiếu tự tin, thiếu sức vươn lên.
Để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi người thầy phải hết sức trân trọng những mặt tốt, những thành tích của học sinh dù chỉ là những thành tích nhỏ, dùng những gương tốt của học sinh trong trường và những tấm gương người tốt việc tốt khác để giáo dục các em.
Thứ nhất, phải tôn trọng nhân cách học sinh, đồng thời đề ra yêu cầu ngày càng cao đối với học sinh
Muốn xây dựng nhân cách cho học sinh người thầy cần phải tôn trọng nhân cách các em. Tôn trọng học sinh, thể hiện lòng tin đối với học sinh là một yếu tố tinh thần có sức mạnh động viên học sinh không ngừng vươn lên rèn luyện hành vi đạo đức. Khi học sinh tiến bộ về đạo đức cần kịp thời có yêu cầu cao hơn để thúc đẩy các em vươn lên cao hơn nữa.
Trong công tác giáo dục đòi hỏi người thầy phải yêu thương học sinh nhưng phải nghiêm với chúng, nếu chỉ thương mà không nghiêm học sinh sẽ nhờn và ngược lại thì các em sẽ sinh ra sợ sệt, rụt rè, không dám bộc lộ tâm tư tình cảm, do đó người thầy không thể uốn nắn tư tưởng, xây dựng tình cảm đúng đắn cho học sinh được.
Thứ hai, giáo dục ý thức đạo đức phải phối hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh THCS và đặc điểm hoàn cảnh cá nhân học sinh
Công tác giáo dục ý thức đạo đức cần phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THCS là quá độ, phức tạp và nhiều mâu thuẩn để từ đó hình thức, biện pháp thích hợp. Cần phải chú ý đến cá tính, giới tính của các em. Đối với từng em, học sinh gái, học sinh trai cần có những phương pháp giáo dục thích hợp, không nên đối xử sư phạm đồng loạt với mọi học sinh. Muốn vậy người thầy phải sâu sát học sinh, nắm chắc từng em, hiểu rõ cá tính để có những biện pháp giáo dục phù hợp.
Thứ ba, trong công tác giáo dục ý thức đạo đức, người thầy cần phải có nhân cách mẫu mực và phải đảm bảo sự thống nhất giữa các các ảnh hưởng giáo dục đối với học sinh
Kết quả công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường THCS phụ thuộc rất lớn vào nhân cách của thầy cô giáo. Lời dạy của thầy cô dù hay đến đâu, phương pháp sư phạm dù khéo léo đến đâu cũng không thay thế được những ảnh hưởng trực tiếp của nhân cách người thầy với học sinh. Lúc sinh thời Bác Hồ đã có lời dạy chúng ta về rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức công dân: “ … Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức…Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con”. (trích các lời dạy của Bác về rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức công dân).
Phải đảm bảo sự nhất trí cao về yêu cầu giáo dục ý thức đạo đức giữa các thành viên trong nội bộ nhà trường và sự thống nhất phối hợp giáo dục học sinh giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Để thực tốt các nhiệm vụ và nguyên tắc nêu trên, cần phải có những phương pháp giáo dục, rèn luyện đạo đức thích hợp mang lại chất lượng thực sự. Cụ thể:
Phương pháp thuyết phục
Là những phương pháp tác động vào lý trí tình cảm của học sinh để xây dựng những niềm tin đạo đức, gồm các nội dung sau:
Giảng giải về đạo đức: được tiến hành trong giờ dạy môn giáo dục công dân cũng như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ…
Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể chuyện, đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện, nêu gương tốt của giáo viên và học sinh trong trường.
Trò chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khuyến khích động viên những hành vi cử chỉ đạo đức tốt của các em, khuyên bảo, uốn nắn những mặt chưa tốt.
Phương pháp rèn luyện
Là những phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn luyện cho các em những thói quen ý thức đạo đức, thể hiện được nhận thức và tình cảm đạo đức của các em thành hành động thực tế:
Rèn luyện thói quen ý thức đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà trường: dạy học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt tập thể.
Rèn luyện ý thức đạo đức thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường là biện pháp tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích bên trong của học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành người có đạo đức tốt, vì vậy nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua và động viên học sinh tham gia tốt phong trào này.
Rèn luyện bằng cách chuyển hướng các hoạt động của học sinh từ hoạt động có hại sang hoạt động có ích, phương pháp này dựa trên đặc tính ham hoạt động của trẻ và được dùng để giáo dục học sinh bỏ một thói hư xấu nào đó bằng cách gây cho học sinh hứng thú với một hoạt mới bổ ích, lôi kéo trẻ ra ngoài những tác động có hại.
Phương pháp thúc đẩy
Là phương pháp dùng những tác động có tính chất “cưỡng bách đạo đức bên ngoài” để điều chỉnh, khuyến khích những “động cơ kích thích bên trong” của học sinh nhằm xây dựng đạo đức cho học sinh.
Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu với học sinh, vừa là những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh đòi hỏi học sinh tuân theo để có những hành vi đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường.
Khen thưởng: là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh làm cho bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác noi theo.
Xử phạt: là phê phán những khiếm khuyết của học sinh, là tác động có tính chất cưỡng bách đến danh dự lòng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe những hành vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và những học sinh khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm dụng phương pháp này. Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy hối hận và đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động viên học sinh sửa chữa khuyết điểm, cần phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình xúc phạm đến thân thể học sinh.
II. THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC Ý THỨC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG THCS BÌNH NGỌC - TP MÓNG CÁI.
2.1. Tình hình chung (của địa phương nơi trường đặt cơ sở)
Hoàn cảnh kinh tế, dân cư, tình hình giáo dục, ý thức quan tâm đến giáo dục