Nhân dân ta rất hiếu học và rất coi trọng vai trò của thầy giáo. Câu ca dao “ Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.” đã nói lên điều đó. Trong lễ giáo trước đây, người ta sắp xếp thứ bậc: Quân - Sư – Phụ; xếp thầy trên cha. Thứ bậc ấy tuy là của đạo Nho nhưng được nhân dân ta chấp nhận, điều đó chứng tỏ nhân dân ta đánh giá cao vai trò của giáo dục, của học vấn trong sự phát triển của xã hội. Bác Hồ rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục và đội ngũ thầy giáo. Về sự nghiệp giáo dục, người đã từng nói: “ Vì sự nghiệp mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Về vai trò thầy giáo, Bác dạy “.nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục.”. Nhưng để thực hiện được vai trò vẻ vang của mình, trước hết: “ Thầy phải xứng đáng làm thầy, thầy phải được lựa chọn cẩn thận vì không phải ai cũng làm thầy được .”
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 2 khóa VIII về những giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu GD-ĐT từ nay đến năm 2010 đã nêu: “ Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh, giáo viên phải đủ đức, đủ tài.”. Điều đó có nghĩa là giáo viên không đủ đức, đủ tài không thể tạo ra những con người đi vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của trí tuệ, kỷ nguyên của KHKT hiện đại; và sẽ không hoàn thành sứ mệnh CNH - HĐH đất nước. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ Nghề dạy học là nghề sáng tạo bậc nhất vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”.
Chỉ thị số 40- CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010" đã ghi nhận rõ lí do vì sao phải xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục : “Trong lịch sử nước ta, "tôn sư trọng đạo" là truyền thống quý báu của dân tộc, nhà giáo bao giờ cũng được nhân dân yêu mến, kính trọng. Những năm qua, chúng ta đã xây dựng được đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ngày càng đông đảo, phần lớn có phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị tốt, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao. Đội ngũ này đã đáp ứng quan trọng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.Cơ cấu giáo viên đang mất cân đối giữa các môn học, bậc học, các vùng, miền. Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ nhà giáo có mặt chưa đáp ứng yêu cầu và truyền đạt lý thuyết, ít chú ý đến phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành của người học; một bộ phận nhà giáo thiếu gương mẫu trong đạo dức, lối sống, nhân cách, chưa làm gương tốt cho học sinh, sinh viên. Năng lực của sự nghiệp giáo dục. Chế độ, chính sách còn bất hợp lý, chưa tạo được động lực đủ mạnh để phát huy tiềm năng của đội ngũ này.
Tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài, nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và chấn hưng đất nước”.
Từ nhận thức trên đây, tôi thấy vị trí, vai trò của giáo viên trong sự nghiệp giáo dục, càng thấy hơn trách nhiệm xây dựng đội ngũ giáo viên “vừa hồng vừa chuyên” của các nhà quản lý giáo dục. Từ đó, tôi thấy rõ hơn trách nhiệm xây dựng đội ngũ giáo viên đạt chuẩn ở các trường phổ thông là việc làm cần thiết và phải làm ngay. Đó cũng là mục tiêu hàng đầu của quản lý nhà nước.
Xuất phát từ những lý do khách quan và lý do chủ quan như đã phân tích ở trên, tôi lựa chọn đề tài: “ Một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên trường phổ thông ”.
54 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2472 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên trường phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý trường phổ thông nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
MỤC LỤC
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài; 2. Mục tiêu nghiên cứu; 3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
Phần nội dung
Chương I: Một số vấn đề lí luận của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
1. Cơ sở khoa học của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
2. Cơ sở pháp lý của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
3. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Chương II: Thực trạng của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GV trường phổ thông .
1. Những thành tựu chung
2. Những yếu kém và bất cập
3. Nguyên nhân
4. Một số vấn đề đặt ra trong việc vận dụng nguyên tắc TTDC trong quản lý trường phổ thông nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GV
Chương III: Một số biện pháp của việc vận dụng nguyên tắc TDC nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường phổ thông .
Phần kết luận
1. Kết luận
2. Bài học kinh nghiệm
3
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân dân ta rất hiếu học và rất coi trọng vai trò của thầy giáo. Câu ca dao “ Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.” đã nói lên điều đó. Trong lễ giáo trước đây, người ta sắp xếp thứ bậc: Quân - Sư – Phụ; xếp thầy trên cha. Thứ bậc ấy tuy là của đạo Nho nhưng được nhân dân ta chấp nhận, điều đó chứng tỏ nhân dân ta đánh giá cao vai trò của giáo dục, của học vấn trong sự phát triển của xã hội. Bác Hồ rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục và đội ngũ thầy giáo. Về sự nghiệp giáo dục, người đã từng nói: “ Vì sự nghiệp mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Về vai trò thầy giáo, Bác dạy “...nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục...”. Nhưng để thực hiện được vai trò vẻ vang của mình, trước hết: “ Thầy phải xứng đáng làm thầy, thầy phải được lựa chọn cẩn thận vì không phải ai cũng làm thầy được .”
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 2 khóa VIII về những giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu GD-ĐT từ nay đến năm 2010 đã nêu: “ Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh, giáo viên phải đủ đức, đủ tài...”. Điều đó có nghĩa là giáo viên không đủ đức, đủ tài không thể tạo ra những con người đi vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của trí tuệ, kỷ nguyên của KHKT hiện đại; và sẽ không hoàn thành sứ mệnh CNH - HĐH đất nước. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ Nghề dạy học là nghề sáng tạo bậc nhất vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”.
Chỉ thị số 40- CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010" đã ghi nhận rõ lí do vì sao phải xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục : “Trong lịch sử nước ta, "tôn sư trọng đạo" là truyền thống quý báu của dân tộc, nhà giáo bao giờ cũng được nhân dân yêu mến, kính trọng. Những năm qua, chúng ta đã xây dựng được đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ngày càng đông đảo, phần lớn có phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị tốt, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao. Đội ngũ này đã đáp ứng quan trọng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số...Cơ cấu giáo viên đang mất cân đối giữa các môn học, bậc học, các vùng, miền. Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ nhà giáo có mặt chưa đáp ứng yêu cầu và truyền đạt lý thuyết, ít chú ý đến phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành của người học; một bộ phận nhà giáo thiếu gương mẫu trong đạo dức, lối sống, nhân cách, chưa làm gương tốt cho học sinh, sinh viên. Năng lực của sự nghiệp giáo dục. Chế độ, chính sách còn bất hợp lý, chưa tạo được động lực đủ mạnh để phát huy tiềm năng của đội ngũ này.
Tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài, nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và chấn hưng đất nước”.
Từ nhận thức trên đây, tôi thấy vị trí, vai trò của giáo viên trong sự nghiệp giáo dục, càng thấy hơn trách nhiệm xây dựng đội ngũ giáo viên “vừa hồng vừa chuyên” của các nhà quản lý giáo dục. Từ đó, tôi thấy rõ hơn trách nhiệm xây dựng đội ngũ giáo viên đạt chuẩn ở các trường phổ thông là việc làm cần thiết và phải làm ngay. Đó cũng là mục tiêu hàng đầu của quản lý nhà nước.
Xuất phát từ những lý do khách quan và lý do chủ quan như đã phân tích ở trên, tôi lựa chọn đề tài: “ Một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên trường phổ thông ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên trường phổ thông ”.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định cơ sở khoa học của việc quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên trường phổ thông
Thực trạng của đội ngũ giáo viên trường phổ thông .
Những giải pháp nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ GV trường phổ thông .
4. Đối tượng nghiên cứu: “Một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên trường phổ thông .
4. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Nhóm phương pháp nghiên cứu hỗ trợ (biểu bảng, sơ đồ).
PHẦN NỘI DUNG:
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CỦA TRƯỜNG PHỔ THÔNG .
1. Cơ sở khoa học của việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên trường phổ thông
Từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, ngành giáo dục Việt Nam đã không ngừng chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên cả về số lượng lẫn chất lượng. Ngày nay, chúng ta đã có một hệ thống trường sư phạm đào tạo giáo viên mọi cấp, từ Trung ương đến địa phương. Tỉ lệ giáo viên chuẩn ngày một cao hơn. Đội ngũ giáo viên đó đã tạo nên thành tựu rực rỡ cho nền giáo dục XHCN Việt Nam. Vấn đề đội ngũ giáo viên hiện nay là họ đã thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương 2, Ngành giáo dục và đào tạo đã có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên phổ thông nói riêng, đã và đang không ngừng lớn mạnh về số lượng cũng như chất lượng.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây với cơ chế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực, đã gây nên những biến động lớn, làm đảo lộn nhiều bậc thang giá trị trong xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Nguyên nhân của sự giảm sút này có nhiều, trong đó vấn đề đội ngũ giáo viên là nguyên nhân quan trọng. Bởi một số giáo viên còn có những biểu hiện chưa toàn tâm toàn ý phục vụ sự nghiệp giáo dục, và một số bộ phận không đủ điều kiện đảm nhận trách nhiệm người thầy. Sự phân bố đội ngũ giảng dạy lại không đồng đều; nơi thừa, nơi thiếu, môn thừa, môn thiếu. Đời sống cán bộ giáo viên cũng có sự phân bố sâu sắc. Trong lúc đó, đất nước ta trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ giỏi về trình độ nhận thức, trình độ chuyên môn, trình độ sư phạm, trình độ công nghệ thông tin, có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt.
Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục đã và đang có chính sách và những biện pháp tích cực, cụ thể nhằm tháo gỡ những khó khăn của giáo dục nói chung và đội ngũ giáo viên nói riêng, chuẩn bị cho sự đổi mới toàn diện giáo dục khi bước vào thiên niên kỉ mới. Tuy nhiên, mọi chính sách, biện pháp dù tích cực đến mấy cũng trở thành hình thức nếu bản thân đội ngũ giáo viên và mỗi giáo viên không ý thức đầy đủ trách nhiệm khó khăn và cao cả của mình để tự đổi mới và tự vươn lên.
b) Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động chính trị xã hội ở nước ta, đồng thời cũng là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước của nước ta.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc Hiến định; Điều 6, Chương I, Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi, bổ xung năm 2001) ghi nhận:
"Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ".
Quan điểm về tổ chức và hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ đã được Nhà nước CHXHCN Việt Nam ghi nhận trong ba văn bản Hiến pháp: Hiến pháp 1959 (Điều 4, Chương I); Hiến pháp 1980 (Điều 6, Chương I); Hiến pháp 1992 (Điều 6, Chương I - sửa đổi).
* Những yêu cầu và nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của các cơ quan trung ương, của cấp trên với mở rộng dân chủ, nhằm tăng cường tính chủ động, sáng tạo và khai thác mọi tiềm năng của các cơ quan địa phương, của cấp dưới, đồng thời đảm bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước và thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân.
Sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương cần tập trung vào các vấn đề vĩ mô như: thể chế, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành cũng như toàn bộ nền kinh tế, còn mở rộng dân chủ ở địa phương là phải có sự phân định rõ ràng về thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền; tiến hành phân cấp quản lý cho địa phương quản lý các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, đời sống, thu - chi ngân sách, tổ chức nhân sự... ở địa phương; xác định rõ trách nhiệm quản lý theo ngành và theo lãnh thổ.
Các cơ quan quyền lực nhà nước là do dân bầu ra, các cơ quan đó phải chịu trách nhiệm, phải báo cáo công tác trước nhân dân, phải chịu sự giám sát của nhân dân. Các cơ quan tư pháp, hành pháp tối cao là do Quốc hội lập ra, các cơ quan đó cũng phải chịu sự giám sát của Quốc hội; phải chịu trách nhiệm và phải báo cáo công tác trước Quốc hội.
Nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải có sự qui định rõ ràng về các chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của từng loại cơ quan nhà nước, của từng chức danh công chức, cán bộ. Phải có sự phân định rõ trách nhiệm tập thể của các cơ quan nhà nước và trách nhiệm cá nhân của từng công chức, cán bộ. Phải xây dựng chế độ kết hợp giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phục trách.
Quản lý nhà nước về giáo dục cũng tuân thủ nguyên tắc này. Dưới góc độ vĩ mô nguyên tắc này có nghĩa là nhà nước thống nhất quản lí HTGDQD về mục tiêu, chương trình, nội dung,... qui chế thi cử và hệ thống văn bằng (Luật Giáo dục 2005). Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về QLGD cho địa phương và tạo điều kiện để cơ sở phát huy chủ động và sáng tạo.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quá quen thuộc đối với tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, các đơn vị sự nghiệp… ở Việt Nam.
Tuy nhiên để hiểu đúng và có thể vận dụng được nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục ở cơ sở cần suy nghĩ để trả lời câu hỏi : Làm thế nào giải quyết tốt mối quan hệ giữa chế độ thủ trưởng và thực hiện dân chủ cơ sở ở một trường học ?
Như vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ đối với quản lí trường phổ thông có nghĩa là nhà nước thống nhất, tập trung quản lí về chế độ, chính sách giáo dục ; về mục tiêu, nội dung giáo dục và qui chế văn bằng... đồng thời tạo điều kiện cho cơ sở chủ động sáng tạo trong việc triển khai các hoạt động giáo dục và quản lí trường phổ thông cụ thể, tránh việc ôm đồm hoặc buông lỏng trên cơ sở phân cấp, phân quyền về quản lí trường phổ thông rõ ràng bằng một hành lang pháp lí hợp lí, đồng bộ.
Đối với cơ sở phát huy quyền làm chủ của tập thể sư phạm, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân theo chế độ thủ trưởng đối với việc quản lí trường phổ thông . Dân chủ hoá giáo dục, dân chủ hoá nhà trường là các tư tưởng lớn, tuy nhiên việc dựa vào các văn bản pháp luật, pháp qui để đảm bảo quyền và nghĩa vụ đối với mọi đối tượng tham gia hoạt động giáo dục là điều cần nắm chắc khi triển khai nguyên tắc tập trung dân chủ ở cơ sở.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây là phát huy quyền chủ động của Hiệu trưởng phối hợp với tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể xã hội trong quản lý trường phổ thông .
Sự phối hợp giữa Hiệu trưởng với tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể xã hội trong trường phổ thông hình thành nên hệ thống các mối quan hệ. Hệ thống quan hệ này có nhiều mức độ.
Có thể chỉ tham gia ở mức độ góp phần vào một hoạt động, một tổ chức chung nào đó, chưa thể hiện được chiều sâu trong việc làm.
Có thể cùng góp sức làm chung một công việc, nhưng có thể không thực hiện chung một trách nhiệm. Sự cộng tác đôi khi có tính chất nhất thời, tuỳ từng vụ việc.
Sự hợp tác cùng chung sức, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc một lĩnh vực hoạt động, nhằm một mục tiêu giáo dục (MTGD)
Tóm lại quan hệ đó là quan hệ phối hợp với nhiều mức độ khác nhau.
Quan hệ ấy cũng nhiều tầng, bậc do vai trò của từng lực lượng trong quan hệ phối hợp.
. Hiệu trưởng phối hợp với tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể trong trường phổ thông nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục, cụ thể là :
a) Quan hệ phối hợp trên cơ sở quy định của pháp luật
Để phát triển giáo dục nói chung và phát triển trường phổ thông nói riêng có nhiều văn bản pháp luật quy định nhiệm vụ, trách nhiệm của nhà trường và các tổ chức đoàn thể.
- "Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân;…. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở." (Điều 27 Luật Giáo dục).
- "Các đoàn thể nhân dân trước hết là Đoàn TNCS HCM, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên, nhi đồng". "Đoàn TNCS HCM có trách nhiệm phối hợp với nhà trường giáo dục thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, vận động thanh niên gương mẫu trong học tập, rèn luyện tham gia sự nghiệp giáo dục".
Điều 22, Điều lệ trường phổ thông quy định: ”Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam và đoàn thể trong trường
1. Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong trường tiểu học lãnh đạo nhà trường và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ của Đảng.
2. Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Sao Nhi đồng Hồ Chí Minh và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong trường tiểu học theo quy định của pháp luật và Điều lệ của từng tổ chức nhằm giúp nhà trường thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục”.
Như vậy, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây phải được biểu hiện ở sự phối hợp giữa Chi bộ Đảng, chính quyền, Công đoàn, Đoàn TNCS HCM trong trường phổ thông PT được các văn bản nhà nước quy định, là trách nhiệm chung, sự thống nhất thực hiện MTGD.
Trong mối quan hệ phối hợp vì MTGD, Hiệu trưởng phải luôn luôn giữ vai trò trung tâm, nòng cốt. Tuỳ theo nội dung hoạt động, đặc điểm của tổ chức đoàn thể làm cơ sở để xác định mức độ phối hợp và xây dựng cơ chế phối hợp. Sự vận hành của cơ chế được chỉ đạo bởi nguyên tắc Đảng lãnh đạo - Chính quyền quản lý - Nhân dân làm chủ, toàn xã hội tham gia dưới sự quản lý của Nhà nước.
. Hiệu trưởng phối hợp với Công đoàn trong trường phổ thông PT
Quan hệ phối hợp giữa Hiệu trưởng và Công đoàn trong trường phổ thông PT là sự vận dụng mềm dẻo, có tính nguyên tắc về quyền, trách nhiệm của tổ chức công đoàn với thủ trưởng đơn vị cơ quan.
- Quyền kiến nghị, tham gia ý kiến của Công đoàn đối với Hiệu trưởng trong các hoạt động : Xây dựng chương trình kế hoạch năm học ; Dự hội nghị của trường và các cuộc họp quan trọng do Hiệu trưởng tổ chức ; Giải quyết và sắp xếp việc làm của cán bộ, giáo viên, nhân viên; Quản lý bảo hiểm xã hội ; Giải quyết khiếu nại, tố cáo.....
- Quyền cùng thực hiện công việc của Công đoàn với Hiệu trưởng:
Tổ chức thi đua; Chăm lo công tác bảo hiểm xã hội; Quản lý quỹ phúc lợi; Quyền thoả thuận quyết định của Công đoàn với Hiệu trưởng: Quy định mối quan hệ giữa Hiệu trưởng với Công đoàn; Quyết định tiền lương, thưởng, nhà ở, kỷ luật; Điều kiện làm việc cung cấp thông tin cho Công đoàn; Thời gian hoạt động, điều kiện hoạt động của cán bộ Công đoàn.
- Quyền "đối thoại" giữa Công đoàn và Hiệu trưởng.
Đại diện người lao động đối thoại với Hiệu trưởng; Cấp phát tài chính, và nhiều hoạt động khác.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, Công đoàn ngành Giáo dục đã phối hợp với Bộ GD & ĐT tạo phát động bốn cuộc vận động : dân chủ hoá nhà trường, xã hội hoá giáo dục, kỷ cương - tình thương - trách nhiệm và gia đình nhà giáo văn hóa.
Hiệu trưởng và Công đoàn trong trường phổ thông PT phối hợp thực hiện bốn cuộc vận động đó, trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của cấp trên và tình hình thực tiễn của địa phương.
Như vậy mối quan hệ giữa Hiệu trưởng và Công đoàn trong trường phổ thông PT rất đa dạng và phong phú ở nhiều mức độ khác nhau. Hiệu quả của sự phối hợp này phụ thuộc vào sự năng động, năng lực của Hiệu trưởng và Ban chấp hành Công đoàn trong việc thực hiện các văn bản pháp quy và giải quyết tình hình thực tiễn trong nhà trường.
. Hiệu trưởng phối hợp với Đoàn TNCS HCM
Đoàn TNCS HCM trong trường phổ thông là tổ chức gần Đảng nhất, là lực lượng đông đảo trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường.
Đoàn TNCS HCM có vị trí, vai trò đã được khẳng định trong Hiến pháp, trong Luật Giáo dục và trong Điều lệ Đoàn. Đoàn có trách nhiệm phối hợp với Hiệu trưởng về giáo dục thế hệ trẻ. Đoàn có vai trò nòng cốt trong các tổ chức học sinh và thanh niên trong các hoạt động giáo dục. Tổ chức quần chúng đông đảo này là đối tượng giáo dục đồng thời cũng là chủ thể công tác giáo dục. Cho nên vai trò đảm bảo hiệu quả chất lượng giáo dục thực sự đặt lên vai Đoàn Thanh niên. Trong sự phối hợp giữa Hiệu trưởng và Đoàn TNCS HCM có rất nhiều hình thức phong phú về công tác giáo dục trong nhà trường.
Đoàn TNCS HCM trong trường phổ thông có tiềm năng lớn tham gia công tác giáo dục.
Đoàn Thanh niên cùng với Hiệu trưởng thực hiện các hoạt động ngay trong nhà trường. Việc chỉ đạo hoạt động đoàn trong nhà trường phổ thông ực chất là việc chỉ đạo học tập và tham gia các hoạt động giáo dục theo kế hoạch của nhà trường, kết hợp với những chủ trương về giáo dục của bản thân Đoàn Thanh niên theo hướng chỉ đạo của Ban nhà trường từ Trung ương Đoàn.
Đoàn còn hoạt động ngay trong tổ chức của những người dạy, vì không ít giáo viên trẻ là đoàn viên thanh niên, cho nên chính đoàn viên là người học và người dạy này sẽ góp phần quyết định chất lượng và hiệu quả của giáo dục.
Đoàn cùng với nhà trường tổ chức và thực hiện các hoạt động ngoại khoá chương trình giáo dục ngoài nhà trường.
Các hoạt động ngoại khoá tuy gắn với từng bộ môn nhưng cần có sự hỗ trợ của Đoàn, nhất là những hoạt động phù hợp với tính chất của lứa tuổi và chức năng của Đoàn. Chương trình hoạt động giáo dục ngoài nhà trường xây dựng theo các chủ điểm có sự phối hợp từ Trung ương (Bộ GD&-ĐT và Trung ương Đoàn TNCS HCM). Đoàn có vai trò chủ động tổ chức hoạt động này.
- Đoàn thanh niên giữ vai trò chính trong các hoạt động thăm quan, du lịch, vui chơi giải trí, thể dục thể thao, sinh hoạt câu lạc bộ … Đoàn còn giữ vai trò nòng cốt của nhiều chương trình xã hội trong nhà trường như phong trào "thanh niên lập nghiệp", "Tuổi trẻ giữ nước" cuộc vận động lớn năm 2001 - 2002 " xã hội tình nguyện vì trẻ em đặc biệt khó khăn" do Trung ương Đoàn phát động.
Để phát huy vai trò trách nhiệm của Đoàn TNCS HCM trong trường phổ thông PT về công tác giáo dục cần phát triển tổ chức Đoàn ngày càng vững mạnh. Cho nên ở những nơi, những lúc cần thiết chính Hiệu trưởng phải tham gia vào việc xây dựng, củng cố Đoàn Thanh niên, nhất là đổi mới phương thức hoạt động của Đoàn tạo nên tính đồng bộ trong việc đổi