Nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi lớn, sự nghiệp công nghiệp hoá
và hiện đại hóa đất nước vẫn đang được tiếp tục thực hiện với nhiều thành
công rực rỡ. Tuy nhiên để tiếp tục thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi tổng sản
lượng quốc dân đến năm 2000 mà Đảng ta đề ra, chúng ta cần phải có
khoảng 250 ngàn tỉ đồng vốn đầu tư. Vì vậy, triển khai giải quyết vốn là vấn
đề hết sức cấp bách cho nền kinh tế.
Để có được số vốn lớn này, tốt hơn hết là vốn được huy động từ trong
nước qua kênh ngân sách và hệ thống tín dụng. Chính vì lẽ đó việc mở rộng
và nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của hệ thống ngân hàng
thương m ại nói riêng và của hệ thống tín dụng nói chung rất được coi trọng
và được xem như là một trong những giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu
quả kinh tế -xã hội của hệ thống tín dụng.
Nhìn vào tình hình huy động vốn của các tổ chức tín dụng tiêu biểu là
của các ngân hàng thương mại trong ngân hàng trong những thời gian vừa
qua, ta có thể thấy được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, tuy nhiên nó
cũng còn nhiều mặt tồn tại cần giải quyết và nâng cao hơn nữa hiệu quả của
công tác này.
Trên cơ sở lý luận được học tại trường và kinh nghiệm thực tiễn thu
được trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm và với
tư cách là m ột sinh viên tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề
này thông qua đề tài : “Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm”.
60 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1851 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dương Văn Hùng - 037
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHOA
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Đề tài: Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm
Dương Văn Hùng - 037
2
LờI NóI đầu
Nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi lớn, sự nghiệp công nghiệp hoá
và hiện đại hóa đất nước vẫn đang được tiếp tục thực hiện với nhiều thành
công rực rỡ. Tuy nhiên để tiếp tục thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi tổng sản
lượng quốc dân đến năm 2000 mà Đảng ta đề ra, chúng ta cần phải có
khoảng 250 ngàn tỉ đồng vốn đầu tư. Vì vậy, triển khai giải quyết vốn là vấn
đề hết sức cấp bách cho nền kinh tế.
Để có được số vốn lớn này, tốt hơn hết là vốn được huy động từ trong
nước qua kênh ngân sách và hệ thống tín dụng. Chính vì lẽ đó việc mở rộng
và nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của hệ thống ngân hàng
thương mại nói riêng và của hệ thống tín dụng nói chung rất được coi trọng
và được xem như là một trong những giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu
quả kinh tế - xã hội của hệ thống tín dụng.
Nhìn vào tình hình huy động vốn của các tổ chức tín dụng tiêu biểu là
của các ngân hàng thương mại trong ngân hàng trong những thời gian vừa
qua, ta có thể thấy được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, tuy nhiên nó
cũng còn nhiều mặt tồn tại cần giải quyết và nâng cao hơn nữa hiệu quả của
công tác này.
Trên cơ sở lý luận được học tại trường và kinh nghiệm thực tiễn thu
được trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm và với
tư cách là một sinh viên tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề
này thông qua đề tài : “Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm”.
Qua đây, tôi cũng đưa ra một vài biện pháp và kiến nghị nhằm mở
rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động này tại Ngân hàng Công thương Hoàn
Kiếm.
Dương Văn Hùng - 037
3
Bài viết này được trình bầy làm 3 chương :
Phần I : Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của
Ngân hàng thương mại.
Phần II : Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Công
thương Hoàn Kiếm.
Phần III : Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo
trong khoa Ngân hàng và nhất là thầy Nguyễn Văn Nam, đội ngũ cán bộ
công nhân viên Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, mà đặc biệt là sự giúp
đỡ tận tình của các cô chú, anh chị đang công tác tại phòng kinh doanh trong
việc làm quen với hoạt động của Ngân hàng và trong việc thu thập và tổng
hợp số liệu cho bài viết này.
Dương Văn Hùng - 037
4
đề cương luận văn
Đề tài :
Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm.
Phần I
Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động
của Ngân hàng thương mại.
I - khái quát về Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là một trong những ngành công nghiệp lâu đời nhất. Trải
qua quá trình phát triển của xã hội loài người Ngân hàng và nghề Ngân hàng
không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Nếu như trong thời kỳ sơ khai
hoạt động của Ngân hàng chỉ giới hạn trong việc giữ hộ của cải hoặc thanh
toán hộ thì cho đến nay hoạt động của Ngân hàng đã được mở ra trên rất
nhiều các lĩnh vực với công nghệ ngày càng hoàn thiện. Thực tế nhiều năm
qua đã chứng tỏ cho thấy rằng : Ngân hàng là một ngành nghề không thể
thiếu được trong nền kinh tế, nó đóng vai trò làm môi giới, làm trung gian
cho sự gặp gỡ của cung và cầu tiền tệ, thông qua việc huy động vốn tạm thời
nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức trong xãa hội rồi cho vay lại đối với cá
nhân, các tổ chức đang có nhu cầu về vốn. Điều này góp phần đẩy mạnh tốc
độ quay vòng của vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, biền tiền nhàn rỗi vào
đầu tư sản xuất kinh doanh, tránh lãnh phí của cải vật chất cho xã hội. Qua
đó đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế mà tình hình hoạt động của Ngân hàng
phản ánh rất chính xác tình hình nền kinh tế, sự vững mạnh, phồn vinh hay
yếu kém của nền kinh tế được phản ánh rất rõ qua hoạt động của Ngân hàng.
Dương Văn Hùng - 037
5
Ngân hàng thương mại ra đời như một đứa con ưu tú nhất của nền
kinh tế hàng hoá và chính Ngân hàng thương mại đến lượt mình đã ghóp
phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Ngân hàng thương mại đầu tiên được thành lập vào năm 1782 và đã có
rất nhiều Ngân hàng được thành lập từ những năm 1800 đến nay vẫn đang
hoạt động chứng rỏ sức sống bền bỉ và sự tồn tại khách quan của các NHTM.
Trong các định chế tài chính thì NHTM là định chế quan trọng nhất vì nó giữ
phần lớn của xã hội.
Hệ thống NHTM : Bao gồm các NHTM Quốc doanh, NHTM cổ phần,
Ngân hàng tư nhân với chức năng chính là kinh doanh thông qua hoạt động
trung gian tài chính và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Hệ thống Ngân
hàng thương mại hoạt động dưới sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước thông
qua các quy chế, quy định về hoạt động và thông qua việc thực hiện các văn
bản, chế độ của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện các định hướng trong
chính sách tiền tệ tài chính của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống NHTM có nhữn đòn bẩy tác
động quan trọng đến sản xuất và lưu thông đó là : tiền mặt, tín dụng, lãi suất
... NHTM có một liên hệ vừa bao quát, vừa thâm nhập vào từng đơn vị cơ sở
của nền kinh tế.
NHTM đã có mạng lưới rộng khắp địa bàn sản xuất phân phối lưu
thông, tiêu dùng trong cả nước. Hơn thế nữa, nó còn có quan hệ rộng rãi và
có vai trò quan trọng về tiền tệ, tín dụng, thanh toán giữa nước ta với nước
ngoài.
Với mô hình tổ chức trên, hoạt động của NHTM bao gồm những nội
dung chủ yếu sau :
Dương Văn Hùng - 037
6
+ Tạo nguồn vốn thông qua các hoạt động như : huy động vốn nhàn
rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước dưới các hình
thức:
- Tiền quỹ tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền quỹ tiết kiệm không kỳ hạn.
- Phát hành kỳ phiếu Ngân hàng.
- Hậu tiền ký gửi
v.v...
Vay từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước : vay các Ngân hàng
Nhà nước, nhận vốn điều hoà trong hệ thống.
+ Sử dụng vốn tự có và vốn vay thông qua hoạt động tín dụng thực
hiện các dự án đầu tư dưới hình thức ghóp vốn hay mua trái phiếu kho bạc,
tài trợ xuất nhập khẩu, đầu tư kinh doanh bất động sản, kinh doanh vàng bạc
đá quý ...
+ Thực hiện các dịch vụ Ngân hàng : thanh toán hộ, thu hộ, bảo hành
thực hiện các dịch vụ tư vấn khách hàng.
Ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc tự chủ trong kinh
doanh, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, tuân thủ các chế độ, chính sách
của Ngân hàng Nhà nước và chính phủ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính
với Bộ Tài Chính, bảo toàn vốn và có lãi.
Thực tế đã chứng tỏ rằng, với mô hình tổ chức trên, thì đây là mô hình
tổ chức thích hợp nhất trong nền kinh tế thị trường, vì nó đáp ứng được đầy
đủ nhu cầu của nền kinh tế, đồng thời phát huy được hết sức mạnh sẵn có
trong mỗi NHTM và phát huy được hết vai trò của cả hệ thống NHTM nói
riêng và cả hệ thống Ngân hàng nói chung.
Dương Văn Hùng - 037
7
II - vai trò của hệ thống NHTM đối với nền kinh tế:
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua một thời gian dài
trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nên bước vào cơ chế thị trường gặp
rất nhiều khó khăn. Vấn đề lo đủ vốn để phát triển kinh tế được đưa lên hàng
đầu. Đối với một nền kinh tế như nước ta thì vốn cần cho đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng là hết sức lớn và không ngừng tăng lên.
Công cuộc đổi mới mở ra toàn diện và bắt đầu đi vào chiều sâu, yêu
cầu phải có vốn để tăng tốc đầu tư, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thưo chiều hướng công nghiệp hoá và hiện đại hóa, đảm bảo nhịp độ tăng
trưởng kinh tế nhanh và lâu bền, tạo sự phát triển kinh tế quan trọng cho các
năm tới.
Đối với Ngân hàng thương mại, nó thể hiện được sự đáp ứng này đối
với nền kinh tế, thông qua vai trò của mình là :
1) Ngân hàng thương mại là nơi huy động tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi
trong xã hội để cung cấp cho nhu cầu của nền kinh tế :
Như chúng ta đã biết trong xã hội luôn luôn tồn tại mâu thuẫn về sự
thừa và sự thiếu vốn một cách tạm thờ0i, tức là có tình trạng một thời kỳ nào
đó người thì thừa tiền, trong khi lại có những người cần tiền. Đối với những
người, những tổ chức có tiền tạm thời nhãn rỗi, thì vấn để đối với họ là làm
sao bảo quản được số tiền đó được an toàn và nếu có thể sinh lợi được thì
càng tốt. Nhưng để thực hiện được điều này, nó còn phụ thuộc vào khả năng,
vào mối quan hệ của từng người, và thông thường những người có tiền tạm
thời nhàn rỗi luôn tìm cách cho những người hay những tổ chức đang có nhu
cầu về vốn vay trong một thời hạn nhất định chứ không trực tiếp đầu tư vào
sản xuất do sự giới hạn và khả năng thu hồi tiền mặt. Tuy nhiên điều này hầu
như rất khó thực hiện được. Do vậy, trong xã hội luôn luôn tồn tại mâu thuẫn
này. Xét về mặt kinh tế thì lượng tiền này nếu được tập trung lại để cho vay
Dương Văn Hùng - 037
8
với những người đang có nu cầu sẽ đem lại lợi ích kinh tế cho cả người có
tiền nhàn rỗi và người có nhu cầu về vốn nói riêng và đem lại hiệu quả kinh
tế cho cả nền kinh tế nói chung, Ngân hàng thương mại chính là người thực
hiện chức năng cầu nối này.
2) Ngân hàng thương mại với hoạt động của mình ghóp phần tăng cường
hiệu quả hoạt động của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của
nền kinh tế nói chung.
Đặc trưng cơ bản của Ngân hàng là cho vay có hoàn trả với một mức
lãi suất nhất định và với một thời hạn nhất định, chính điều này đã bắt buộc
mọi cá nhân và doanh nghiệp khi vay vốn của Ngân hàng phải cân nhắc và
phải sử dụng vốn đó một cách có hiệu quả nhất, để có thể bảo toàn vào sinh
lợi được vốn đó, sau đó phải trả vốn vay và lãi đúng thời hạn. Đây chính là
động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường công tác hạch toán, giảm chi
phí sản xuất nhưng phải tăng chất lượng sản phẩm và tăng vòng quay của
vốn. Qua đó, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, trước khi quyết
định một món vay Ngân hàng thường tiến hành thẩm định tín dụng, chỉ thực
hiện cho vay đối với những cá nhân, doanh nghiệp phải có sự sắp xếp, bố trí
tổ chức sản xuất phù hợp, để có cơ hội vay vốn của Ngân hàng, đây chính là
động lực, là cơ sở giúp cho việc tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, qua đó tăng hiệu quả nền kinh tế.
3) Ngân hàng thương mại là tổ chức thực hiện phân bổ vốn giữa các
vùng qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển đồng đều giữa các vùng khác
nhau trong cùng một quốc gia.
Trong quá trình phát triển kinh tế của một nước và đặc biệt là các nước
đang phát triển, thì hiện tượng thừa và thiếu vốn giữa các vùng diễn ra
thường xuyên. Cho nên một vấn đề cần giải quyết được đặt ra là làm sao
thực hiện được việc tập trung vốn từ vùng có nhu cầu nhưng không có nguồn
vốn sẽ có đủ nguồn vốn để phát triển kinh tế. Chính Ngân hàng thực hiện
Dương Văn Hùng - 037
9
hoạt động này thông qua hoạt động điều chuyển vốn của Ngân hàng thương
mại trung ương.
4) Ngân hàng thương mại thông qua hoạt động của mình ghóp phần
quan trọng vào việc chống lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định
tình hình kinh tế.
Trong hoạt động của mình, Ngân hàng có thể giảm bớt lượng tiền mặt
trong lưu thông bằng cách tăng lãi suất huy động để thu hút tiền mặt vào
đồng thời tăng lãi suất ở đầu ra để hạn chế lượng tiền mặt ra trong thời kỳ
kinh tế có lạm phát cao, hoặc các Ngân hàng có thể hành động ngược lại khi
nền kinh tế có hiện tượng giảm sút. Qua việc thay đổi trong chính sách huy
động và cho vay như trên, Ngân hàng góp phần làm ổn định sức mua của
đồng tiền, ngăn chặn được sự tăng giá đột ngột, kiềm chế làm phát làm ổn
định nền kinh tế.
5) Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa kinh tế trong nước và ngoài
nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước hòa nhập với nền kinh tế trong
khu vực và nền kinh tế trên thế giới.
Một Ngân hàng thương mại có phạm vi hoạt động và quan hệ rộng rãi
với rất nhiều tổ chức kinh tế. Nó có khả năng huy động được vốn từ các cá
nhân, tổ chức ngoài nước hay tổ chức tài chính tín dụng quốc tế, qua đó đảm
bảo được vốn cho nền kinh tế trong nước, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh
tế trong nước có thể mở rộng hoạt động của họ ra nước ngoài một cách có
hiệu quả hơn, thông qua hoạt động thanh toán quốc tế, tư vấn tài trợ xuất
nhập khẩu. Ngân hàng có thể làm đại lý cho các tổ chức tài chính, tín dụng
nước ngoài qua đó giúp các tổ chức kinh tế trong nước có thể vau vốn các tổ
chức này để nhập công nghệ cao, nang cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh
trạnh với thị trường quốc tế.
Dương Văn Hùng - 037
10
Trên đây, là toàn bộ khái quát về vài trò của hệ thống Ngân hàng
thương mại hoạt động trong cơ chế thị trường. Trên góc độ một sinh viên
nghiên cứu về hoạt động đầu vào của một ngân hàng, mà chủ yếu là hoạt
động huy động vốn ta sẽ xem xét kỹ hơn vấn đền này thông qua việc huy
động vốn của một Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Iii - cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại :
Cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác, Ngân hàng muốn hoạt
động được trước hết phải có vốn. Nhưng vì mặt hàng kinh doanh của Ngân
hàng rất đặc biệt, vì vị trí và vai trò của nó cho nên nhu cầu về vốn của Ngân
hàng thương mại là rất lớn, do vậy nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
bao gồm :
1) Nguồn vốn tự có :
Nguồn vốn này được hình thành từ hai bộ phần là :
+ Vốn điều lệ: Đây là số vốn ban đầu của một Ngân hàng thương mại,
là tiêu chuẩn được thành lập và đi vào hoạt động của NHTM. Về mặt quy
mô thì vốn điều lệ lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định.
Vốn điều lệ có thể do ngân sách Nhà nước cấp (đối với vốn NHTM
quốc doanh), có thể do các thành viên đóng góp dưới hình thức mua cổ
phiếu (đối với NHTM cổ phần) hoặc vốn điều lệ có thể do cá nhân tự bỏ vốn
ra (đối với Ngân hàng tư nhân).
Loại vốn này nói lên quy mô hoạt động và khat năng cạnh tranh ban
đầu của Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại có trách nhiệm bảo toàn và
phát triển vốn này (đối với NHTM quốc doanh).
+ Vốn tích lũy : Vốn này được hình thành trong quá trình hoạt động
của Ngân hàng thông qua việc trích nộp các quỹ. Cứ mỗi Ngân hàng căn cứ
vào kết quả hoạt động của mình mà trích một phần lợi nhuận nhằm bổ xung
Dương Văn Hùng - 037
11
vào vồn tự có của Ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ này lại tuỳ thuộc vào quy định
của từng nước.
2) Vốn dự trữ :
Theo quy định chung của các NHTM đều phải mở tài khoản tại các
Ngân hàng trung ương và nộp vào đó các khoản dự trữ bao gồm :
- Dự trữ tối thiểu pháp định.
- Dự trữ để đảm bảo các hoạt động của Ngân hàng.
- Các khoản dự trữ đặc biệt được pháp luật qui định.
3) Nguồn vốn điều hoà trong hệ thống.
Vì các NHTM hoạt động trên các địa bàn khác nhau nên luôn luôn
xuất hiện tình trạng ở Ngân hàng này có hiện tượng thừa vốn do huy động
nhiều nhưng không sử dụng hết, trong khi đó Ngân hàng kia lại thiếu vốn. Sở
dĩ có tình trạng này là do : Về phía Ngân hàng thừa vốn có thể do sự biến
động lớn ở thị trường đầu ra dẫn đến việc không mở rộng được hoạt động
trong khi vẫn phải duy trì việc huy động vốn vì mục đích giữ khách hàng.
Còn về phía bên Ngân hàng thiếu vốn do thị trường đầu ra mở rộng trong khi
thị trường đầu vào không thể mở rộng được hơn nữa, dẫn đến tình trạng thiếu
vốn. Chính lúc này Ngân hàng trung ương hoặc các hội sở chính sẽ thực hiện
việc điều phối chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu trên cơ sở hai bên cùng
có lợi.
Chính vì thế, đây có thể coi là một nguồn vốn khá quan trọng, nó giúp
Ngân hàng có thể mở rộng được thị trường đầu ra trong điều kiện thị trường
đầu vào vẫn còn bị hạn chế và qua đó làm tăng lợi nhuận của Ngân hàng.
4) Nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng :
+ Nguồn vốn vay Ngân hàng nhà nước:
Dương Văn Hùng - 037
12
NHTM thực hiện việc vay tiền của Ngân hàng Nhà nước thông qua
hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá. Khi Ngân hàng có nhu cầu rút tiền
mặt của khách hàng, họ có thể mang các giấy tờ có giá như : tín phiếu, trái
phiếu kho bạc Nhà nước, tiền triết khấu. Nguồn vốn này hình thành chủ yếu
là để đảm bảo kảh năng thanh toán của Ngân hàng.
+ Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng quốc tế :
Đây là loại vốn vay chiếm tỷ trọng không lớn ở nhữn nước đang phát
triển, bởi vì ở các nước này Ngân hàng muốn có được vốn ở nguồn này phải
được phép của Ngân hàng Nhà nước và thường dưới hình thức vay theo hiệp
định.
5) Nguồn vốn huy động:
Đây là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất để Ngân hàng có thể
hoạt động để cho vay. Đây là số tiền Ngân hàng nhận được dưới nhiều hình
thức khác nhau.
- Nhận tiền gửi của khách hàng.
- Vốn đi vay của các tổ chức tín dụng.
- Vốn phát hành.
Ngân hàng có quyền sử dụng số tiền này để phục vụ cho các mục đích
của mình. Nếu như trong thời kỳ bao cấp, việc huy động vốn của Ngân hàng
theo quy chế tập trung toàn ngành và phụ thuộc vào chủ tiêu do trên giao thì
này chuyển sang hạch toán kinh doanh, huy động vốn đuợc thực hiện một
cách linh hoạt căn cứ vào các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước và nhu
cầu vay vốn của nền kinh tế.
Chi tiết về các hình thức này sẽ được trình bầy trong phần “ Các hình
thức huy động vốn của Ngân hàng”
Dương Văn Hùng - 037
13
IV - các hình thức huy động vốn của NHTM :
1 Tính chất vận động của nguồn vốn huy động :\
Ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay”. Do đó, khi
huy động vốn, giữa Ngân hàng và các tổ chức kinh tế hình thành một quan
hệ tín dụng thông qua vận động giá trị tiền gửi, vồn huy động được vận động
trên cơ sở hoàn trả và có lãi. Quá trình đó được thể hiện ở giai đoạn sau :
- Giai đoạn tập trung nguồn vốn vào ngân hàng, ở giai đoạn này tiền
được chuyển từ các tổ chức kinh tế, dân cư, người cho vay sang Ngân hàng -
người đi vay. Như vậy, ta thấy rằng đặc điểm cở bản khác với việc đi mua
bán hàng hoá là giá trị chỉ thay đổi hình thái tồn tại. Mác viết : “Đối với hàng
hoá đơn giản với tư cách là hàng hoá thì ở trong tay người mua hay người
bán, nó cũng vẫn là một giá trị như thế, chỉ dưới hình thức khác nhau mà
thôi”. Người bán và người mua đều có một giá trị như trước, giá trị này mà
họ đã nhượng đi, người thứ 1 thì nhượng đi dưới hình thức hàng hoá, người
thứ 2 nhượng đi dưới hình thức tiền tệ ... trong việc cho vay thì chỉ có một
bên được nhận giá trị và chỉ có một bên nhượng đi giá trị mà thôi...? ( Các
Mác tư bản tập 3 trang 32).
- Sử dụng vốn trong quá trình sản xuất sau khi huy động vốn ngân
hàng (người đi vay) được quyền sử dụng vốn đó để thoả mãn những nhu cầu
về vốn nhất định ở giai đoạn nàynguồn vốn huy động được sử dụng tham gia
trực tiếp vào sản xuất hoặc đáp ứng những nhu cầu về tiêu dùng của người đi
vay. Tuy nhiên người đi vay không có quyền sở hữu về giá trị các khoản vay
không có quyền sở hữu về gía trị các khoản vay đó mà chỉ được sử dụng tạm
thời trong một thời gian nhất định.
- ở giai đoạn hoàn trả: Đây có thể nói là giai đoạn kết thúc một vòng
tuần hoàn của nguồn vốn huy động. Sau khi vốn mà ngân hàng đã huy động
Dương Văn Hùng - 037
14
tham gia hoàn thành một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì ngân
hàng hoàn trả cho các tổ chức kinh tế và dân cư.
Mác viết: “ Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữumột thời
gian và chẳng qua chỉ là tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay nhà
tư bản hoạt động. Tiền chỉ đem nhượng lại với một điều kiện là sẽ quay trở
về điểm xuất phát sau một thời gian nhất định”
( Các Mác- tư bản quyển 3 tập 2 trang 57).
Như vậy, hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của vốn tín
dụng. Mặt khác sự hoàn trả của mỗi nguồn vốn huy động là quá trình quay
trở về giá trị. Hình thái vật chất của sự hoàn trả là sự vận động dưới hình
thức giá trị. Tuy nhiên sự vận động đó không phải vơí tư cách là phương tiện
lưu thông mà với tư cách là một lượng giá trị vận động. Chính vì lý do đosự
hoàn trả luôn được bảo tồn về mặt giá trị và phần tăng thêm dưới hì