Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Đây là thời kỳ chuyển giao mà nhiệm vụ trung tâm của nó là tiến hành CNH & HĐH nhằm thúc đẩy sự phát triển của LLSX sao cho tính chất và trình độ của LLSX phải thích ứng và phù hợp với QHSX mới XHCN. Với điều kiện của một nước tiến hành quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam, đòi hỏi phải có một cách tiến hành phù hợp trong việc CNH & HĐH đất nước.
Trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới và vận dụng một cách hợp lý vào điều kiện của Việt Nam cũng như đúc kết kinh nghiệm của bản thân, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định áp dụng mô hình các KCN, KCX, KCNC như một công cụ hiệu quả để thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH. Và thực tế hơn 10 năm xây dựng và phát triển KCN (dùng theo nghĩa chung, bao gồm cả KCN, KCX, KCNC) trên phạm vi cả nước đã phần nào minh chứng cho sự đúng đắn của quyết định này.
Trong thực tế hơn 10 năm phát triển vừa qua, các KCN trong cả nước đã thu hút được lượng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tương đối lớn, góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn là hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN lại không thực sự hiệu quả, làm giảm đi vai trò tích cực của các KCN. Vậy nguyên nhân nào đã khiến cho hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN trở nên kém hiệu quả như vậy trong khi điều kiện lại có được những điều kiện hết sức thuận lợi. Từ những băn khoăn đó, em đã lấy đề tài “Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các khu công nghiệp ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của bài Khoá luận tốt nghiệp này.
101 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1737 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các khu công nghiệp tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
@&?
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG
TRIỂN KHAI THỰC HIỆN DỰ ÁN FDI TRONG
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn : PGS. TS. Vũ Chí Lộc
Sinh viên : Lê Thị Thanh Thuỷ
Lớp : A13 - K38D - KTNT
HÀ NỘI - 2003
MỤC LỤC
Trang
Mục lục
Lời nói đầu
Kết Luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
Danh mục các từ viết tắt
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Đây là thời kỳ chuyển giao mà nhiệm vụ trung tâm của nó là tiến hành CNH & HĐH nhằm thúc đẩy sự phát triển của LLSX sao cho tính chất và trình độ của LLSX phải thích ứng và phù hợp với QHSX mới XHCN. Với điều kiện của một nước tiến hành quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam, đòi hỏi phải có một cách tiến hành phù hợp trong việc CNH & HĐH đất nước.
Trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới và vận dụng một cách hợp lý vào điều kiện của Việt Nam cũng như đúc kết kinh nghiệm của bản thân, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định áp dụng mô hình các KCN, KCX, KCNC như một công cụ hiệu quả để thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH. Và thực tế hơn 10 năm xây dựng và phát triển KCN (dùng theo nghĩa chung, bao gồm cả KCN, KCX, KCNC) trên phạm vi cả nước đã phần nào minh chứng cho sự đúng đắn của quyết định này.
Trong thực tế hơn 10 năm phát triển vừa qua, các KCN trong cả nước đã thu hút được lượng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tương đối lớn, góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn là hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN lại không thực sự hiệu quả, làm giảm đi vai trò tích cực của các KCN. Vậy nguyên nhân nào đã khiến cho hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN trở nên kém hiệu quả như vậy trong khi điều kiện lại có được những điều kiện hết sức thuận lợi. Từ những băn khoăn đó, em đã lấy đề tài “Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các khu công nghiệp ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của bài Khoá luận tốt nghiệp này.
Khoá luận nhằm mục đích, trước hết là nhằm hệ thống hoá các vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung và hoạt động triển khai thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài nói riêng. Tiếp đến là tiến hành phân tích về thực trạng hoạt động triển khai thực hiện các dự án FDI trong KCN ở Việt Nam thời gian qua, đánh giá ưu, nhược điểm và xác định các nguyên nhân khiến cho hoạt động triển khai các dự án FDI KCN lâm vào tình trạng không hiệu quả. Và cuối cùng là đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm góp phần tháo gỡ các vướng mắc, khắc phục những nhược điểm, hạn chế của hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong KCN, qua đó nhằm đẩy mạnh hoạt động triển khai các dự án FDI đầu tư vào KCN ở Việt Nam một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Khoá luận là hoạt động triển khai thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài trong các KCN trên cả nước, được xem xét và đánh giá trong tương quan so sánh với hoạt động thu hút các dự án FDI vào KCN và hoạt động triển khai thực hiện các dự án FDI đầu tư chung trên cả nước.
Với mục đích và phạm vi nghiên cứu như trên, Khoá luận được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI.
Chương II: Thực trạng hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN ở Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động triển khai thực hiện dự án FDI trong các KCN ở Việt Nam.
Mặc dù đã rất nỗ lực nhưng do thời gian và trình độ có hạn nên bài viết không tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô và các bạn.
Hà Nội, ngày 16 tháng 12 năm 2003
Sinh Viên
Lê Thị Thanh Thuỷ
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN DỰ ÁN FDI
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI:
Khái niệm & các đặc trưng cơ bản:
Khái niệm đầu tư nước ngoài và dự án đầu tư nước ngoài:
Để làm rõ được hai khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (dự án FDI), trước tiên cần phải hiểu được thế nào là hoạt động đầu tư và dự án đầu tư.
Cho đến nay, đã có rất nhiều khái niệm được đưa ra nhằm định nghĩa hoạt động đầu tư và dự án đầu tư. Tuy nhiên, trong quy mô bài viết này, chỉ xin nêu ra một khái niệm được dùng phổ biến nhất.
Theo đó:
Đầu tư là tập hợp các hoạt động bỏ vốn và sử dụng vốn theo một chương trình đã được hoạch định trong một khoảng thời gian tương đối dài nhằm thu được lợi ích lớn hơn cho các nhà đầu tư, cho xã hội và cộng đồng.
Dự án đầu tư là tập hợp những ý kiến, đề xuất về việc bỏ vốn đầu tư vào một đối tượng nhất định và giải trình kết quả thu được từ hoạt động đầu tư.
Ban đầu, các hoạt động đầu tư chỉ diễn ra giữa các chủ thể trong cùng một quốc gia. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của loài người, các quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia được thiết lập và ngày càng được tăng cường. Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc tế đó, đã làm xuất hiện một hình thức đầu tư mới mà quy mô của nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, đó là hoạt động đầu tư quốc tế. Đầu tư quốc tế chính là việc các nhà đầu tư ở quốc gia này bỏ vốn vào các quốc gia khác theo một chương trình đã được hoạch định trong một thời gian dài nhằm đáp ứng các nhu cầu của thị trường và mang lại lợi ích lớn hơn cho chủ đầu tư và cho xã hội. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được nghiên cứu trong phần này chính là một trong hai loại hình cơ bản của đầu tư quốc tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn đồng thời là người sử dụng vốn, có nghĩa là nhà đầu tư trực tiếp thực hiện việc quản lý và điều hành hoạt động đầu tư. FDI được thực hiện thông qua việc thành lập các công ty con để mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của các công ty quốc tế ra toàn cầu. Việc mở rộng qua hình thức FDI này không chỉ đơn thuần là sự chu chuyển tài chính quốc tế, mà cùng với nó là sự chuyển giao công nghệ, bí quyết quản lý và các tài sản vô hình khác.
Các dự án đầu tư có sự góp vốn và tham gia quản lý vốn của người nước ngoài được gọi là dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (dự án FDI).
Như vậy, ta có thể định nghĩa hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và dự án FDI như sau:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hoạt động đầu tư do các tổ chức kinh tế và cá nhân nước ngoài tự mình hoặc cùng với các tổ chức kinh tế của nước sở tại bỏ vốn vào một đối tượng nhất định, trực tiếp quản lý và điều hành để thu lợi trong kinh doanh.
Dự án FDI là những dự án đầu tư do các tổ chức kinh tế và cá nhân ở nước ngoài tự mình hoặc cùng với các tổ chức kinh tế ở nước sở tại bỏ vốn đầu tư, trực tiếp quản lý và điều hành để thu lợi trong kinh doanh.
Các đặc trưng cơ bản của dự án FDI:
Các dự án FDI, trước hết cũng là một dự án đầu tư nên cũng có đầy đủ các đặc trưng cơ bản của một dự án đầu tư nói chung. Đó là:
+ Dự án không chỉ là một ý định hay phác thảo, mà có tính cụ thể và mục tiêu xác định, nhằm đáp ứng một nhu cầu nào đó của một cá nhân, tập thể hay một quốc gia;
+ Dự án đòi hỏi sự tác động tích cực của con người, con người chính là nhân tố quyết định sự thành bại thậm chí ngay từ giai đoạn hình thành dự án;
+ Dự án luôn có một độ bất định và những rủi ro có thể xảy ra;
+ Dự án phải có bắt đầu và kết thúc và chịu những giới hạn đã cho về nguồn lực (phương tiện)
Ngoài các đặc trưng nói trên, các dự án FDI còn có các đặc trưng mang tính chất đặc thù so với các dự án đầu tư trong nước và thậm chí so cả với các dự án ODA. Các đặc trưng đó là:
Một là, nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia hoặc tự mình quản lý, điều hành đối tượng bỏ vốn.
Hai là, các bên tham gia vào dự án FDI có quốc tịch khác nhau, đồng thời thường sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Ba là, dự án FDI chịu sự chi phối đồng thời của nhiều hệ thống pháp luật (bao gồm luật pháp của các quốc gia xuất thân của các Bên và luật pháp quốc tế). Quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế đòi hỏi các quốc gia đều phải tiến hành cải tiến hệ thống pháp luật của mình cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bốn là, có sự gặp gỡ, cọ sát giữa các nền văn hoá khác nhau trong quá trình hoạt động của dự án.
Năm là, các dự án FDI được thực hiện thông qua nhiều hình thức đầu tư có tính đặc thù. Đó là việc hình thành các pháp nhân mới có yếu tố nước ngoài, hoặc là sự hợp tác có tính đa quốc gia trong các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc BOT, hoặc là tạo ra những khu vực đầu tư tập trung đặc biệt có yếu tố nước ngoài...
Sáu là, hầu hết các dự án FDI đều gắn liền với quá trình chuyển giao công nghệ với nhiều hình thức và mức độ khác nhau.
Bảy là, “cùng có lợi” được các Bên coi là phương châm chủ đạo, là nguyên tắc cơ bản để giải quyết quan hệ giữa các Bên trong mọi giai đoạn của dự án FDI.
Tóm lại, các đặc trưng cơ bản của các dự án FDI trên đã cho thấy, dự án FDI về bản chất là sự hợp tác theo nguyên tắc thoả thuận của nhiều quốc gia với quốc tịch, ngôn ngữ, luật pháp, văn hoá và trình độ phát triển khác nhau. Chính sự khác nhau về nhiều mặt trong quá trình hợp tác đầu tư giữa các Bên (đại diện cho các quốc gia xuất thân) đã làm cho các dự án FDI trở nên hết sức phức tạp trong quá trình soạn thảo, triển khai và vận hành dự án. Các đặc trưng này đòi hỏi các Bên trực tiếp hợp tác đầu tư và cả các quốc gia cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tham gia kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài một cách hữu hiệu nhất và hạn chế với mức cao nhất những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hợp tác đầu tư với quốc gia khác.
Phân loại dự án FDI:
Trong thực tiễn hợp tác đầu tư nước ngoài, một quốc gia luôn có khá nhiều các dự án FDI. Để thuận tiện cho việc quản lý, người ta thường phân loại các dự án này theo các tiêu thức khác nhau. Có thể kể ra sau đây một số tiêu thức phân loại thường gặp:
Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh của dự án FDI:
+ Dự án FDI trong lĩnh vực công nghiệp.
+ Dự án FDI trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.
+ Dự án FDI trong lĩnh vực dịch vụ như tài chính, ngân hàng, khách sạn, du lịch, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, văn hoá, y tế, giáo dục…
Các lĩnh vực kinh doanh này lại được phân chia nhỏ hơn tuỳ theo quy định của từng nước. Số lượng các dự án hoặc vốn đầu tư và quan hệ tỷ lệ giữa các loại dự án hoặc vốn đầu tư tạo thành cơ cấu dự án hoặc cơ cấu vốn đầu tư theo lĩnh vực kinh doanh của dự án FDI. Cơ cấu FDI theo lĩnh vực kinh doanh được thực hiện sẽ tạo thành cơ cấu kinh tế theo lĩnh vực sản xuất.
Căn cứ vào hình thức đầu tư của dự án FDI:
Trong Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, ban hành lần đầu tiên vào ngày 29.12.1987 và sau đó được sửa đổi, bổ sung ngày 9.6.2000, các hình thức của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định tại Điều 4, Chương II. Theo đó, các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức sau:
+ Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC).
+ Doanh nghiệp liên doanh.
+ Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh ba hình thức đầu tư cơ bản trên, các dự án FDI đầu tư vào Việt Nam còn được thực hiện theo hình thức dự án BOT và các hình thức phái sinh của nó như BTO hoặc BT.
Số lượng các dự án FDI hoặc số vốn FDI theo từng hình thức đầu tư và quan hệ tỷ lệ giữa các loại dự án hoặc các loại vốn FDI tạo thành cơ cấu FDI theo các hình thức đầu tư.
Căn cứ vào quy mô của dự án FDI:
+ Dự án quy mô nhỏ.
+ Dự án quy mô vừa.
+ Dự án quy mô lớn.
Sự phân loại dự án FDI theo tiêu chí quy mô cũng chỉ mang tính tương đối vì tiêu chuẩn về các loại quy mô đối với các dự án FDI là khác nhau giữa các nước. Đối với các nước nghèo và đang phát triển, một dự án FDI có quy mô khoảng 100 triệu USD đã có thể được coi là một dự án có quy mô lớn trong khi ở các nước phát triển, những dự án như vậy chỉ được coi là có quy mô vừa, thậm chí là nhỏ.
Cơ cấu dự án hoặc vốn FDI theo quy mô và sự biến đổi của cơ cấu này cho phép người ta nhận biết được mức độ thuận lợi trong môi trường đầu tư của nước sở tại qua các thời kỳ khác nhau.
Căn cứ vào địa điểm đầu tư của dự án FDI:
+ Dự án FDI ở tỉnh A.
+ Dự án FDI ở tỉnh B ...
Số lượng các dự án hoặc vốn đầu tư của từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và quan hệ tỷ lệ giữa các tỉnh, thành phố về số dự án hoặc về vốn đầu tư tạo thành cơ cấu FDI theo địa giới hành chính trong một nước.
Căn cứ vào mức độ tập trung của dự án FDI:
+ Dự án đầu tư vào các khu vực đầu tư tập trung như đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
+ Dự án đầu tư độc lập.
Căn cứ vào tính chất vật chất của dự án FDI:
+ Dự án FDI có tính chất vật chất.
+ Dự án FDI có tính chất phi vật chất.
Tóm lại, có nhiều cách phân loại dự án đầu tư quốc tế. Mỗi cách phân loại lại tạo thành một cơ cấu FDI tương ứng. Căn cứ vào cơ cấu FDI này hàng năm và sự thay đổi của nó qua các năm mà Nhà nước áp dụng các biện pháp điều chỉnh cơ cấu FDI cho phù hợp với yêu cầu chuyển dịch của cơ cấu kinh tế và cơ cấu sản xuất.
Các giai đoạn trong chu trình dự án FDI:
Chu trình dự án FDI chính thức bắt đầu từ khi nghiên cứu cơ hội đầu tư hoặc có ý đồ đầu tư cho đến khi kết thúc hoạt động của dự án và thanh lý xong dự án.
Nếu phân theo giai đoạn thì chu trình của dự án FDI bao gồm:
Giai đoạn hình thành dự án FDI:
Giai đoạn này được tính từ khi hình thành ý đồ đầu tư (tức là nghiên cứu và lựa chọn cơ hội đầu tư trực tiếp nước ngoài) cho đến khi dự án FDI được nước sở tại cấp giấy phép đầu tư.
Đây là giai đoạn được coi là quan trọng nhất trong toàn bộ chu trình của một dự án FDI bởi vì đây là giai đoạn thiết kế và hoạch định các hoạt động trong tương lai thành các chương trình có tính hệ thống chặt chẽ, được nghiên cứu cẩn thận bởi cả chủ đầu tư lẫn các ban ngành quản lý ở nước sở tại. Hơn nữa, đây là giai đoạn hình thành các chủ trương, chiến lược góp phần giành được thế chủ động trong đàm phán và ký kết hợp đồng sau này.
Nội dung cơ bản của giai đoạn hình thành dự án FDI bao gồm các bước: (1) Xây dựng dự án FDI cơ hội và dự án FDI tiền khả thi; (2) Tìm chọn đối tác nước ngoài và xúc tiến ký kết các hợp đồng đầu tư; (3) Lập hồ sơ dự án FDI gửi lên cơ quan cấp giấy phép có thẩm quyền; (4) Thẩm định và cấp giấy phép đầu tư cho các dự án FDI.
Một dự án FDI có thể được đăng ký đầu tư hoặc được thẩm định. Kết quả của quá trình thẩm định có thể là cấp giấy phép hoặc thông báo bác bỏ dự án đầu tư.
Giai đoạn triển khai thực hiện dự án FDI:
Giai đoạn này được tính từ khi dự án FDI được cấp giấy phép đầu tư đến khi bàn giao công trình để đưa vào sản xuất kinh doanh. Mục đích của giai đoạn này là bảo đảm tiến độ và quỹ thời gian cho phép nhằm đưa dự án FDI đi vào khai thác đúng tiến độ. (trình bày chi tiết ở phần II).
Giai đoạn vận hành khai thác dự án FDI:
Giai đoạn này được tính từ khi dự án được bàn giao để đưa vào sản xuất kinh doanh chính thức cho đến khi thanh lý dự án. Đây chính là giai đoạn các doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động kinh doanh dưới sự quản lý điều hành của Bộ máy quản trị doanh nghiệp.
Các vấn đề thực hiện quản trị trong các doanh nghiệp có vốn FDI bao gồm: (1) Tổ chức Bộ máy quản trị doanh nghiệp có vốn FDI; (2) Hoạch định chương trình kinh doanh của doanh nghiệp có vốn FDI; (3) Quản trị sản xuất trong doanh nghiệp có vốn FDI; (4) Quản trị nhân sự trong doanh nghiệp có vốn FDI; (5) Quản trị tài chính trong doanh nghiệp có vốn FDI; (6) Quản trị hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có vốn FDI; (7) Quản trị tranh chấp và thanh lý tài sản trong doanh nghiệp có vốn FDI.
Giai đoạn kết thúc hoạt động của dự án FDI:
Việc kết thúc hoạt động của dự án FDI xảy ra khi dự án hết thời hạn hoạt động ghi trong giấy phép đầu tư mà các bên không muốn tiếp tục kéo dài thêm dự án hoặc khi dự án FDI phải giải thể trước thời hạn vì các lý do khác nhau như phá sản, rút giấy phép trước thời hạn quy định trong hồ sơ dự án.
Để kết thúc hoạt động của dự án FDI, cần phải:
+ Thông báo chấm dứt hoạt động của dự án trên các báo Trung ương và địa phương.
+ Tiến hành thanh lý tài sản của dự án, của doanh nghiệp theo quy định pháp lý của nước sở tại.
+ Ban thanh lý phải báo cáo kết quả thanh lý cho Hội đồng quản trị thông qua và gửi cơ quan cấp giấy phép đầu tư xin chuẩn y.
+ Trong quá trình thanh lý, nếu xét thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì việc xử lý tài sản của doanh nghiệp FDI và các bên tham gia hợp doanh được tiến hành theo thủ tục của pháp luật về phá sản doanh nghiệp.
TRIỂN KHAI THỰC HIỆN DỰ ÁN FDI:
Khái niệm và vai trò của giai đoạn triển khai thực hiện dự án FDI:
Khái niệm:
Triển khai dự án FDI là quá trình các nhà quản trị giao dịch với các cơ quan quản lý nước sở tại và thực hiện các công việc cụ thể biến các dự kiến trong dự án khả thi thành hiện thực, nhằm đưa các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư vào xây dựng và hoạt động.
Như vậy, thực chất triển khai dự án FDI bao gồm hai loại công việc:
Các công việc giao dịch có tính chất thủ tục hành chính.
Các công việc cụ thể để đưa dự án FDI vào cuộc sống thực tiễn, thường được gọi là thực hiện đầu tư.
Vai trò của giai đoạn triển khai dự án FDI:
Đây là một giai đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong toàn bộ chu trình dự án FDI.
Một là, nếu như giai đoạn hình thành dự án FDI có vai trò như một giai đoạn chuẩn bị về mặt lý thuyết, trên giấy tờ của hoạt động đầu tư mà kết quả của nó là dự án FDI khả thi được nước sở tại cấp phép đầu tư thì giai đoạn triển khai dự án FDI lại có vai trò như một giai đoạn chuẩn bị về mặt thực tiễn, tạo lập các cơ sở hạ tầng, vật chất, kỹ thuật... cho hoạt động đầu tư. Kết quả của giai đoạn này là toàn bộ các công trình về cơ sở hạ tầng, nhà xưởng cũng như các máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất đã sẵn sàng đi vào vận hành sản xuất kinh doanh.
Hai là, như trong khái niệm có nêu, đây là giai đoạn biến các dự kiến trong dự án FDI khả thi thành hiện thực, nó có vai trò hiện thực hoá dự án FDI. Nếu không có giai đoạn này thì các dự án FDI chỉ còn đơn thuần là các dự kiến, các kế hoạch... trên giấy tờ mà thôi. Giai đoạn triển khai dự án FDI như một cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn và do đó không thể thiếu và cũng không thể bỏ qua được.
Ba là, giai đoạn này có vai trò quyết định đến tiến độ và hiệu quả của hoạt động đầu tư. Như trên đã phân tích, giai đoạn triển khai dự án FDI có nhiệm vụ thiết lập và xây dựng toàn bộ cơ sở vật chất cần thiết để dự án đi vào hoạt động. Do đó, tiến độ triển khai dự án sẽ quyết định tiến độ của hoạt động đầu tư. Nếu một dự án triển khai chậm hay thậm chí là không triển khai được thì các giai đoạn về sau sẽ không thể thực hiện được hoặc thực hiện không hiệu quả. Trên thực tế, có không ít các dự án mà giai đoạn triển khai không theo kịp tiến độ đã đề ra dẫn đến tình trạng dự án mặc dù đã hoạt động được một thời gian nhưng vẫn có những hạng mục chưa được triển khai làm phát sinh những ách tắc và chi phí không đáng có.
Các công việc cần thực hiện khi triển khai dự án FDI:
Các công việc cần được thực hiện trong giai đoạn triển khai dự án FDI, ở các nước khác nhau, tuỳ theo các quy định của luật pháp, các điều kiện kinh tế - xã hội mà có các quy định khác nhau về việc này. Tuy nhiên, xét về mặt phương pháp luận, giai đoạn triển khai dự án FDI ở tất cả các nước thường bao gồm các loại công việc sau:
Công việc về đất đai: gồm thủ tục để được thuê đất, nhận đất khi hoàn thành thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng.
Công việc thuộc về bộ máy quản lý doanh nghiệp có vốn FDI (đối với các dự án liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài) hoặc bộ phận điều hành dự án (đối với các trường hợp là dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh). Bao gồm các công việc về thủ tục hình thành bộ máy và các công việc tổ chức bộ máy quản trị của doanh nghiệp có vốn FDI.
Các công việc tuyển chọn và sử dụng các loại tư vấn: tư vấn khảo sát, thiết kế, đấu thầu, giám định kỹ thuật và chất lượng công trình, tư vấn pháp luật...
Công việc về xây dựng công trình: thiết kế, thẩm kế, nhận mặt bằng, tổ chức thi công xây dựng...
Tổ chức đấu thầu: đấu thầu xây dựng, mua sắm thiết bị, quản lý...