Quá trình đổi mới PPDH ở trường đại học hiện nay đang hướng tới mục tiêu đào tạo những con người năng động, sáng tạo, có năng lực nghề nghiệp và năng lực thích ứng cao. Việc triển khai dạy học theo quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm (NHTT) hay còn gọi là quá trình dạy – tự học ở các trường gặp nhiều khó khăn. Đề tài Tiểu luận khoa học Một số biện pháp tổ chức, triển khai đổi mới PPDH theo hướng dạy tự học ở Trường ĐH Vinh nhằm phản ánh những khó khăn nói trên và đề xuất một số biện pháp tổ chức, triển khai đổi mới PPDH ở Trường ĐH Vinh.
33 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2779 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp tổ chức, triển khai đổi mới phương pháp dạy học theo hướng dạy tự học ở Trường Đại học Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Nội dung
Trang
Phần mở đầu
3
1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
5
1.2. Lý luận chung về hoạt động dạy tự học
10
2.. Triển khai quá trình dạy- tự học ở Trường Đại học Vinh
24
2.1. Những khó khăn cơ bản trong quá trình triển khai dạy học lấy người học làm trung tâm ở Trường ĐH Vinh
25
2.2. Giáo trình bài giảng dưới dạng môđun và lộ trình đổi mới PPDH ở Trường ĐH Vinh
26
Kết luận
31
CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
PPDH Phương pháp dạy học
GVTH Giáo viên tiểu học
HSTH Học sinh tiểu học
HĐTH Hoạt động tự học
NHTT Người học trung tâm
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Quá trình đổi mới PPDH ở trường đại học hiện nay đang hướng tới mục tiêu đào tạo những con người năng động, sáng tạo, có năng lực nghề nghiệp và năng lực thích ứng cao. Việc triển khai dạy học theo quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm (NHTT) hay còn gọi là quá trình dạy – tự học ở các trường gặp nhiều khó khăn. Đề tài Tiểu luận khoa học Một số biện pháp tổ chức, triển khai đổi mới PPDH theo hướng dạy tự học ở Trường ĐH Vinh nhằm phản ánh những khó khăn nói trên và đề xuất một số biện pháp tổ chức, triển khai đổi mới PPDH ở Trường ĐH Vinh.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nâng cao chất lượng hoạt động dạy- tự học ở Trường ĐH Vinh.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Quá trình tổ chức dạy- tự học ở Trường Đại học Vinh
3.2. Khách thể nghiên cứu:
Hoạt động dạy học ở trường ĐH Vinh.
4. Giả thiết khoa học:
Việc tổ chức hoạt động dạy – tự học Trường Đại học Vinh gặp nhiều khó khăn về điều kiện cần có biện pháp hỗ trợ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài này chúng tôi tập trung giải quyết một số nhiệm vụ sau:
5.1. Phân tích khái quát, hệ thống hoá các tài liệu khoa học có liên quan đến đề tài, làm sáng tỏ cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu hoạt động dạy tự học.
5.2. Khảo sát những khó khăn trong việc triển khai hoạt động dạy-tự học.
5.3. Đề xuất biện pháp triển khai hoạt động dạy- tự học ở trường ĐH Vinh.
6. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài này chúng tôi chỉ nghiên cứu lý luận về hoạt động dạy - tự học, đồng thời khảo sát một số khó khăn trong việcthực trạng và đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động dạy - tự học
7. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Đọc, phân tích, hệ thống hoá, khái quát hoá tài liệu, sách báo về vấn đề có liên quan đến nội dung nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận của đề tài.
7.2. Phương pháp quan sát:
Quan sát thực tế hoạt động dạy- tự học thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, các hoạt động giáo dục tập thể, qua việc dự giờ thăm lớp...
7.3. Phương pháp điều tra:
Để nắm được thực trạng vấn đề nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện, có hệ thống, đảm bảo tính chính xác, khách quan, chúng tôi tiến hành điều tra bằng phiếu đối với giảng viên và sinh viên. Kết quả điều tra là căn cứ chủ yếu để xây dựng các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động dạy - tự học.
7.4. Phương pháp đàm thoại:
Trò chuyện với giảng viên, sinh viên... về các vấn đề có liên quan đến hoạt động tự học để bổ sung thông tin về vấn đề nghiên cứu.
NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH
1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
Trong lịch sử phát triển của giáo dục, việc tự học có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến chất lượng giáo dục và hình thành nên những con người năng động, sáng tạo. Chính vì vậy, từ trước đến nay vấn đề này đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập đến.
1.1.1. Ở nước ngoài.
Vấn đề tự học được đề cập từ rất sớm, từ thời cổ đại các nhà giáo dục đã thấy rõ được tầm quan trọng của tự học.
Lịch sử Trung Hoa cổ đại đã xuất hiện các nhà giáo dục kiệt xuất, nổi bật hơn cả là Khổng Tử (551 - 479 TCN). Trong cuộc đời dạy học của mình, Khổng Tử rất quan tâm và coi trọng mặt tích cực suy nghĩ, sáng tạo của học trò. Ông đòi hỏi học trò phải biết suy nghĩ, phát huy tính tích cực, năng động trong học tập. Ông đã từng nói với học trò: "Không giận vì không muốn biết thì không gợi mở cho, không bực mình vì không rõ được thì không bày vẽ cho, vật có bốn góc, bảo cho một góc mà không suy ra ba góc kia thì không dạy nữa". Theo Khổng Tử thì thầy chỉ giúp học trò cái mấu chốt, quan trọng nhất, còn mọi vấn đề khác học trò phải từ đó mà tìm ra, thầy không làm tất cả cho trò, trò phải tự học là chính.
Nhà sư phạm J.A. Kômenxki (1592 - 1670), ông tổ của nền giáo dục cận đại, người đặt nền móng cho sự ra đời của nhà trường hiện nay, nhà giáo dục lỗi lạc Tiệp Khắc cũng là của nhân loại đã khẳng định: "Không có khát vọng học tập, không có khát vọng suy nghĩ sẽ không thể trở thành tài năng". Trong tác phẩm "Phép giảng dạy vĩ đại", ông đã nêu ra các nguyên tắc, phương pháp giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh (HS) và ông kiên quyết phản đối lối dạy học áp đặt, giáo điều đã làm cho HS thụ động.
Đến thế kỷ XVIII - XIX, các nhà giáo dục học nổi tiếng như J.J. Rousseau (1712 - 1778), Pestalori (1746 - 1827), Disterever (1790 - 1886), Usinxki (1824 - 1890)... đã quan tâm đến sự phát triển trí tuệ, tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Các nhà khoa học giáo dục hướng tới việc phát huy yếu tố tiềm ẩn trong cá nhân con người, nhấn mạnh cách làm cho con người tự dành lấy tri thức bằng con đường tự khám phá, tự tìm tòi. Tiêu biểu như J.J. Rousseau trong tác phẩm "Emêli" (1762), ông đã chú ý đến giáo dục "tự nhiên", tự do hướng cá nhân dành kiến thức bằng cách tự tìm kiếm, khám phá, sáng tạo trong hoạt động.
Phát triển tư tưởng của các nhà giáo dục tiền bối, các nhà giáo dục hiện đại đi sâu nghiên cứu khoa học giáo dục (KHGD) cũng đã khẳng định vai trò to lớn của hoạt động tự học (HĐTH).
N.A. Rubakin với "Tự học như thế nào" và Smit Man Hecboc trong "Nghiên cứu học tập như thế nào" đều cho rằng: Quan tâm đến việc giáo dục động cơ học tập đúng đắn là điều kiện để người học tích cực, chủ động trong tự học.
A.P. Primaco với "Phương pháp đọc sách" đã chỉ ra: Kỹ năng tự học (KNTH) là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho người học đạt kết quả cao. Ông quan tâm đến việc đọc sách, kỹ năng đọc sách và coi đó là kỹ năng quan trọng trong HĐTH, từ đó chỉ rõ trách nhiệm của giáo viên (GV) và nhà trường trong việc bồi dưỡng KNTH cho người học.
A.M. Machiuskin, A.V. Petropski, X.P. Bararov cho rằng: Cần thông qua các bài tập nhận thức, nhất là các bài tập nêu vấn đề để giúp người học nâng cao tính tích cực nhận thức và đạt hiệu quả cao trong HĐTH.
Các nhà giáo dục phương Tây dựa trên cơ sở của tâm lý học hành vi, tâm lý học phát sinh, tâm lý học phân tâm đã đi tìm những phương pháp khai thác cái "tôi" trong người học. Điển hình là Montaigne: "Tốt hơn là ông thầy nên để cho học trò tự lên phía trước mà nhận xét bước đi của họ, đồng thời giảm bớt tốc độ của thầy cho phù hợp với sức trò" .
Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, Mỹ và các nước Tây Âu đã rất quan tâm tìm kiếm những phương pháp giáo dục mới trên cách tiếp cận mới "lấy người học làm trung tâm" - người học giữ vai trò chủ động, tích cực trong quá trình học tập và không còn ở thế thụ động như khi dùng phương pháp giáo dục cổ truyền là lấy người thầy làm trung tâm. Đồng thời đề cao các hoạt động đa dạng của người học, phát triển một số kỹ năng cho người học. Các kỹ năng được tích lũy phải bằng những hoạt động do người học tự tiến hành với sự giúp đỡ của GV. Đó là tư tưởng tiến bộ mà J. Dewey mong muốn giải phóng năng lực sáng tạo của người học. Ngoài ra, một loạt các phương pháp dạy học theo tư tưởng, quan niệm này cũng được đưa vào thực nghiệm như: "phương pháp tích cực", "phương pháp hợp tác", phương pháp cá thể hóa"... Đây là những phương pháp mà người học không lĩnh hội bằng cách nghe thầy giảng bài mà phải tự hoạt động, tự học, tự tìm tòi để lĩnh hội tri thức. GV là trọng tài, đạo diễn, thiết kế, tổ chức làm việc, giúp đỡ HS cách làm, cách học.
Từ những năm 30 của thế kỷ XX, nhiều nhà giáo dục của Châu Á cũng đã quan tâm đến lĩnh vực tự học. T. Makiguchi - nhà sư phạm nổi tiếng người Nhật đã trình bày những tư tưởng giáo dục mới trong tác phẩm "Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo" . Ông cho rằng: "Giáo dục có thể coi là quá trình hướng dẫn tự học mà động lực của nó là kích thích người học sáng tạo ra giá trị để đạt đến hạnh phúc của bản thân và của cộng đồng".
Trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa duy vật biện chứng, các nhà giáo dục Macxit đã khẳng định vai trò to lớn của HĐTH và quan tâm nhiều đến khía cạnh tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả của người học, đó là các tác giả: T.A. Ilina, R. Retzke, G.X. Catxchuc...
Chúng tôi nhận thấy điểm chung nhất ở hầu hết các tác giả là đã đề cập và khẳng định vai trò to lớn của HĐTH cũng như nhiệm vụ của nhà trường trong công tác tổ chức hướng dẫn, bồi dưỡng cho người học phương pháp tự học, quan tâm đến giáo dục động cơ, kỹ năng tự học và thái độ của người học đối với hoạt động tự học. Hoạt động của giáo viên và học sinh được xem là hoạt động cùng nhau, trong đó thầy và trò có những chức năng riêng và hoạt động cùng nhau đó nhằm tạo ra khả năng tự học của học sinh được gọi là hoạt động dạy - tự học.
1.1.2. Ở Việt Nam.
Từ những năm 60 trở lại đây, tư tưởng về dạy - tự học và tổ chức HĐTH cho người học đã được nhiều tác giả như: Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ, Phan Trọng Luận, Nguyễn Kỳ, Trần Kiều, Nguyễn Mạnh Tường... đề cập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong các công trình nghiên cứu của mình. Trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học ra đời, ngày càng được thúc đẩy mạnh mẽ, thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả. Ngày 15/01/1998 tại Hà Nội, Trung tâm đã tổ chức thành công hội thảo khoa học: "Tự học, tự đào tạo, tư tưởng chiến lược của sự phát triển giáo dục Việt Nam". Khẩu hiệu của hội thảo là: "Tất cả vì năng lực tự học, tự đào đạo của dân tộc Việt Nam anh hùng và hiếu học". Hội thảo đã khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động tự học trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống.
Người tâm đắc và có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề tự học phải nói đến GS.TS. Nguyễn Cảnh Toàn. Ông đã cùng với nhóm các nhà khoa học nghiên cứu hoàn thành đề tài "Đào tạo giáo viên theo phương thức tự học có hướng dẫn, kết hợp với thực tập làm giáo viên dài hạn". Ông đã cùng với các tác giả Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường cho ra đời cuốn "Quy trình dạy - tự học". Trong tác phẩm "Luận bàn và kinh nghiệm về tự học", ông đã phân tích một cách sâu sắc các vấn đề xung quanh HĐTH. Và còn có rất nhiều công trình nghiên cứu khác của ông về vấn đề tự học được đăng trên các báo, tạp chí...
Ngoài ra, còn có nhiều tác phẩm, bài viết khác về vấn đề tự học đã được các tác giả đề cập đến dưới nhiều khía cạnh khác nhau:
- Nguyễn Hiến Lê: "Tự học - một nhu cầu của thời đại" - Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1992.
- Lê Khánh Bằng: "Phương pháp tự học" - Nxb Giáo dục, HN, 1994 .
- Phan Trọng Luận: "Tự học - một chìa khóa vàng của giáo dục". Tạp chí NCGD, số 2/1995.
- Nguyễn Dân: "Cần tạo ra năng lực tự học và phong trào tự học". Báo GD-TĐ chủ nhật, số 41/1997.
- Đặng Quốc Bảo: "Tấm gương tự học của Bác". Báo GD-TĐ, số 5/1998.
- Trần Bá Hoành: "Vị trí tự học, tự đào tạo trong quá trình dạy học, giáo dục - đào tạo". Tạp chí NCGD, số 7/1998.
Đồng thời, có nhiều đề tài, luận văn, luận án cũng đã đi sâu nghiên cứu về HĐTH như:
- Nguyễn Thị Lý: "Những biện pháp nâng cao kết quả hoạt động tự học của sinh viên trường CĐSP Kontum". Luận văn thạc sĩ KHGD. ĐHSP Hà Nội, 2001.
- Đặng Ngọc Căn: "Một số biện pháp tổ chức hoạt động tự học của sinh viên trường CĐSP Hà Giang". Luận văn thạc sĩ KHGD. ĐHSP Hà Nội, 2002.
- Đoàn Thị Huyền: "Một số biện pháp nâng cao hoạt động tự học cho sinh viên khoa GDMN trường CĐSP Yên Bái". Luận văn thạc sĩ KHGD. ĐHSP Hà Nội, 2003.
Trong đó, các tác giả trên cơ sở tìm hiểu lý luận, nghiên cứu thực trạng vấn đề tự học, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả HĐTH cho người học.
Như vậy, vấn đề tự học đã được quan tâm từ rất lâu trong lịch sử giáo dục. Nó đã được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Các tác giả đã khái quát HĐTH từ vai trò, ý nghĩa, đến các biện pháp tổ chức đảm bảo cho HĐTH đạt kết quả cao.
1.2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG DẠY- TỰ HỌC.
1.2.1. Khái niệm hoạt động tự học.
1.2.1.1. Thế nào là hoạt động tự học:
Tự học là cốt lõi của việc học. Hễ có học là có tự học, vì không ai có thể học hộ người khác được. Khi ta nói đến hoạt động học tức là xét trong mối quan hệ với hoạt động dạy. Còn khi nói hoạt động tự học là chỉ xét riêng nội lực ở người học.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động tự học:
- N.A. Rubakin trong "Tự học như thế nào", ông đã khẳng định: "Tự tìm lấy kiến thức, có nghĩa là tự học".
- Trong cuốn "Học tập hợp lý", R. Retxke cho rằng: "Tự học là việc hoàn thành các nhiệm vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy".
- Theo Vũ Văn Tảo, Trung tâm nghiên cứu phát triển tự học: "Tự học là tự biến đổi bản thân mình, trở nên có thêm giá trị bằng sự nỗ lực của chính mình để chiếm lĩnh những giá trị mới được lấy từ bên ngoài, là một hành trình nội tại được cắm mốc bởi kiến thức, phương pháp tư duy và sự thực hiện tự phê bình để tự hiểu bản thân mình".
- Theo Nguyễn Kỳ, Trung tâm nghiên cứu phát triển tự học: "Việc tự học thực chất là một quá trình:
+ Tìm ra ý nghĩa, làm chủ các kỹ xảo nhận thức, tạo ra các cầu nối nhận thức trong tình huống học.
+ Tự biến đổi mình, tự làm phong phú mình bằng cách thu lượm và xử lý thông tin từ môi trường xung quanh mình.
+ Tự học, tự tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình, cá nhân hóa việc học".
- Theo Nguyễn Cảnh Toàn: "Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến những lĩnh vực đó thành sở hữu của mình" .
Từ các góc độ khác nhau, tùy thuộc vào chủ thể thực hiện HĐTH mà các tác giả có những cách diễn đạt khác nhau, nhưng các tác giả đều nhìn nhận HĐTH với bản chất của nó là quá trình nhận thức một cách tích cực, tự giác, độc lập, chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho bản thân.
Qua các định nghĩa trên, ta có thể hiểu HĐTH ở những khía cạnh sau:
- Tự học là học mà không cần có sự giám sát bên ngoài, tự học là "tự động học tập", nó thể hiện tính tự giác, tích cực, tự lực rất cao trong quá trình lĩnh hội.
- Tự học là quá trình người học nỗ lực chiếm lĩnh tri thức bằng hành động của chính mình, là tự suy nghĩ, tự mình sử dụng các năng lực và phẩm chất cùng với cả động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan của bản thân để hướng tới mục đích nhất định.
Từ đó, chúng tôi đi đến định nghĩa về tự học như sau:
Tự học là một quá trình tự giác, tích cực, độc lập chiếm lĩnh tri thức và những kinh nghiêm lịch sử xã hội, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, hoàn thiện nhân cách của chính bản thân người học. Trong đó, người học là chủ thể của quá trình nhận thức, tự huy động các chức năng tâm lý, trí tuệ, tự tiến hành hoạt động nhận thức nhằm đạt được mục đích đã định.
1.2.1.2. Các hình thức tự học:
Trong quá trình tự học, người học có thể tiến hành HĐTH dưới nhiều hình thức khác nhau trong những điều kiện khác nhau. Chung quy lại, có thể diễn ra theo 3 hình thức:
Hình thức 1: Hoạt động tự học của người học diễn ra dưới sự điều khiển trực tiếp của người dạy và những phương tiện kỹ thuật trên lớp. Để việc học tập có kết quả, người học phải phát huy năng lực, các phẩm chất như khả năng chú ý, óc phân tích, năng lực tổng hợp, khái quát hóa... tiếp thu tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo mà người dạy định hướng. Đây là hình thức tự học ở mức độ thấp.
Hình thức 2: Tự học của người học được diễn ra có sự điều khiển gián tiếp của người dạy. Người học phải tự sắp xếp quỹ thời gian và điều kiện vật chất để tự học, tự ôn tập, tự củng cố, tự chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo về một lĩnh vực nào đó. Đây là hình thức tự học ở mức độ trung bình.
Hình thức 3: Là tự học ở mức độ cao, không có sự hướng dẫn trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Người học tự tìm kiếm tri thức để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của mình bằng cách tự lập kế hoạch tự học, tự tìm tài liệu nghiên cứu, tự thực hiện kế hoạch, tự rút kinh nghiệm về tư duy, tự phê bình về tính cách và tự đánh giá kết quả học tập của bản thân.
Hoạt động tự học của người học nói chung dù ở hình thức nào cũng đều có tầm quan trọng đặc biệt. Việc tự học sẽ quyết định đến chất lượng, hiệu quả học tập của người học. Mọi tác động từ phía bên ngoài (nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học...) đều phải làm sao huy động được sự nỗ lực của cá nhân người học thì mới có hiệu quả.
Do mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ xem xét HĐTH của người học chủ yếu ở hình thức thứ 3, tự học một cách độc lập, không có sự hướng dẫn trực tiếp hay gián tiếp của người dạy.
1.2.2. Hoạt động dạy- tự học.
Theo GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn: "Mối quan hệ giữa dạy và tự học về bản chất là mối quan hệ giữa ngoại lực và nội lực", trong đó trò tự học - năng lực tự học là nội lực phát triển bản thân người học, thầy dạy- tác động dạy của thầy là ngoại lực đối với sự phát triển của người học. Dựa trên những quan niệm khác nhau về mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực mà chúng ta có hai mô hình dạy học như sau:
1.2.2.1. Mô hình dạy học "Lấy ngoại lực - dạy làm nhân tố quyết định".
Nếu xem ngoại lực là nhân tố quyết định sự phát triển bản thân người học, thì việc dạy của người thầy được xem là yếu tố quyết định sự phát triển của HS, tương ứng với nó là mô hình dạy học "Lấy ngoại lực- dạy làm nhân tố quyết định", mô hình này còn có nhiều tên gọi khác nhau, như : Dạy học truyền thống, mô hình dạy học lấy người dạy làm trung tâm..v.v... Theo mô hình này thì người GV đảm nhiệm cả ba chức năng:
+ Làm ra sản phẩm: Trên lớp học thầy tạo ra nội dung sản phẩm dưới hình thức bài giảng được chuẩn bị trước theo đúng chương trình, sách giáo khoa và trình độ học sinh, ở đây thầy là trung gian phản chiếu tri thức.
+ Quản lý: Tổ chức sự vận hành của lớp trong một không gian, thời gian được quy định, học sinh phải lắng nghe, trả lời các câu hỏi, ghi chép bài giảng..v.v.
+ Điều chỉnh hoạt động: Giám sát, giữ trật tự, phát vấn, phạt...trong mọi trường hợp thầy là người chủ động khởi xướng.
Mô hình này bao hàm nhiều nhược điểm, nhiều nguy cơ:
+ Nếu thầy là trung gian giữa trò và tri thức theo kiểu truyền đạt (Truyền-thu), thì thầy- trung gian có thể là màn ảnh cũng có thể là màn che.
+ Với mô hình dạy học này thì bài giảng của thầy trở thành tri thức cho học sinh, những gì thầy làm tương ứng với những gì trò có thể làm. Sự tương ứng đó ít khi đạt được vì nó còn phụ thuộc vào chỗ những gì thầy truyền đi được trò tiếp nhận tốt hay không.
+ Với mô hình dạy học này thì người học trở nên thụ động, thiếu tự chủ, học thông qua hành động và sự truyền giảng của GV chứ không phải bằng hành động của chính mình. Như thế thì không đảm bảo tạo ra những con người tự chủ, năng động và sáng tạo có năng lực tư duy, có năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống.
Song có thể nói mô hình dạy học này cũng có những lợi thế nhất định:
+ Tiết kiệm, có thể truyền đạt một số kiến thức lớn trong một thời gian ngắn, điều kiện dạy học đơn giản.
+ Đây là PP an toàn nhất và dễ dàng nhất đối với nhà giáo vì có thể chuẩn bị trước bài giảng và chủ động thực hiện theo kế hoạch.
Chính vì những lợi thế đó cho nên mặc dù bị phê phán nhiều, đã được cải tiến thay đổi nhiều nhờ các phương tiện dạy học hiện đại, mô hình dạy học này vẫn là mô hình quen thuộc nhất đối với giáo viên không chỉ ở các trường phổ thông mà cả ở các trường đại học ở nước ta hiện nay. Tình trạng phổ biến hiện nay ở các trường đại học ở nước ta là:
* GV thuyết giảng, SV chiêm ngưỡng, ghi chép: GV cố gắng làm sao cho bài giảng của mình thật dễ hiểu, dễ nhớ, SV cố gắng lắng nghe theo dõi để hiểu ý GV và ghi nhớ, vận dụng làm tốt bài thi.
*GV dạy tất những gì có trong chương trình: Mô hình dạy học này không có các yếu tố đả