1. Trong thời điểm hiện nay, khi mà khoa học công nghệ phát triển với tốc độ nhanh, khi mà những lợi ích của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật mang lại vô cùng to lớn thì xu hướng chọn học những ngành thuộc khoa học tự nhiên của học sinh là điều dễ hiểu. Một thực tế hiển nhiên là phụ huynh nào cũng muốn cho con em mình học tốt các môn: Toán, Lí, Hóa còn các môn: Văn, Sử, Địa có yếu cũng không sao. Thậm chí, có những học sinh có năng khiếu văn từ nhỏ, có thể ngay lập tức “ cái mầm” ấy bị thui chột theo yêu cầu của bố mẹ. Tư tưởng học lệch, không coi trọng môn văn phần nào đã ngấm vào học sinh từ tiểu học và các lớp đầu của trung học cơ sở.
2. Văn học là một môn học rất cần thiết. Nó không chỉ cung cấp tri thức sống, nó còn rèn nhân cách sống, cách cảm nhận cái đẹp Nhưng đây lại là một môn học khó, rất khó. Vì nó trừu tượng và chẳng theo một công thức nào. Khó còn vì không thích học nên chỉ học qua loa, học đại khái. Càng như vậy lại càng học không vào. Bệnh đối phó trong học văn sinh ra từ đó.
3. Ngày nay, sách tham khảo cho học sinh quá nhiều, nhất là các loại sách: “ Để học tốt ”. Bên cạnh yếu tố tích cực, loại sách này cũng góp phần không nhỏ trong việc phát triển “ bệnh lười”, “ bệnh đối phó” của học sinh. Chỉ cần hơn mười ngàn đồng là có một quyển, đủ để đối phó cả năm mà không sợ sai, vì về căn bản nó giống nội dung sách giáo viên của các thầy cô giáo. Học sinh có thể không cần đọc tác phẩm mà vẫn trả lời được câu hỏi trong SGK.
4. Cuộc cải cách giáo dục của ngành ta đặt ra những vấn đề mới mẻ, tích cực, trong đó vấn đề coi học sinh là chủ thể của quá trình nhận thức, giáo viên chỉ là người gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm hiểu. Về mặt lí thuyết điều đó đúng và rất tốt. Nhưng xét trên thực tế, học sinh có là chủ thể được không khi các em không đọc tác phẩm, không tự mình tìm hiểu và trả lời câu hỏi phần hướng dẫn đọc- hiểu của SGK (sách giáo khoa).
Với những khó khăn và thực tế trên, tôi thấy việc thực hiện một giờ dạy văn sao cho hiệu quả: vừa tạo hứng thú cho học sinh, vừa đáp ứng những đổi mới về phương pháp là một điều rất khó. Vì vậy, cần phải đi tìm những giải pháp cho vấn đề học văn của học sinh trong tình hình hiện nay. Đó chính là lí do để tôi thực hiện đề tài này.
24 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3143 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình học văn của học sinh trung học cơ sở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phòng giáo dục Huyện Thanh Oai
Trường THCS Nguyễn Trực
CỘNG HÒA XÃ HÔI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
&!
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM CẢI THIỆN TÌNH HÌNH HỌC VĂN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ”
Người thực hiện: Hà Thị Miên
Đơn vị công tác: Trường THCS Nguyễn Trực
Huyện Thanh Oai – Hà Nội
Năm học: 2009- 2010
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SƠ YẾU LÍ LỊCH
Họ và tên: Hà Thị Miên
Ngày sinh: 28 -02 - 1974
Năm vào ngành: 1995
Ngày vào Đảng: 28 -8 - 2002
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên tổ KHXH trường THCS Nguyễn Trực – Huyện Thanh Oai- Thành phố Hà Nội.
Trình độ chuyên môn: Đại học
Môn giảng dạy: Ngữ văn 9
Khen thưởng :
Giáo viên giỏi cấp huyện năm 2008-2009
- Giải nhất cấp huyện thi dạy chuyên đề “Giáo dục đạo đức theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ” Năm học 2009-2010”
- Giải ba trong hội thi giáo viên dạy giỏi cấp THCS Thành phố Hà Nội chuyên đề “ Giáo dục đạo đức theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ” Năm học 2009-2010
NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
TÊN ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM CẢI THIỆN TÌNH HÌNH HỌC VĂN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ”
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Trong thời điểm hiện nay, khi mà khoa học công nghệ phát triển với tốc độ nhanh, khi mà những lợi ích của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật mang lại vô cùng to lớn thì xu hướng chọn học những ngành thuộc khoa học tự nhiên của học sinh là điều dễ hiểu. Một thực tế hiển nhiên là phụ huynh nào cũng muốn cho con em mình học tốt các môn: Toán, Lí, Hóa… còn các môn: Văn, Sử, Địa… có yếu cũng không sao. Thậm chí, có những học sinh có năng khiếu văn từ nhỏ, có thể ngay lập tức “ cái mầm” ấy bị thui chột theo yêu cầu của bố mẹ. Tư tưởng học lệch, không coi trọng môn văn phần nào đã ngấm vào học sinh từ tiểu học và các lớp đầu của trung học cơ sở.
2. Văn học là một môn học rất cần thiết. Nó không chỉ cung cấp tri thức sống, nó còn rèn nhân cách sống, cách cảm nhận cái đẹp… Nhưng đây lại là một môn học khó, rất khó. Vì nó trừu tượng và chẳng theo một công thức nào. Khó còn vì không thích học nên chỉ học qua loa, học đại khái. Càng như vậy lại càng học không vào. Bệnh đối phó trong học văn sinh ra từ đó.
3. Ngày nay, sách tham khảo cho học sinh quá nhiều, nhất là các loại sách: “ Để học tốt…”. Bên cạnh yếu tố tích cực, loại sách này cũng góp phần không nhỏ trong việc phát triển “ bệnh lười”, “ bệnh đối phó” của học sinh. Chỉ cần hơn mười ngàn đồng là có một quyển, đủ để đối phó cả năm mà không sợ sai, vì về căn bản nó giống nội dung sách giáo viên của các thầy cô giáo. Học sinh có thể không cần đọc tác phẩm mà vẫn trả lời được câu hỏi trong SGK.
4. Cuộc cải cách giáo dục của ngành ta đặt ra những vấn đề mới mẻ, tích cực, trong đó vấn đề coi học sinh là chủ thể của quá trình nhận thức, giáo viên chỉ là người gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm hiểu. Về mặt lí thuyết điều đó đúng và rất tốt. Nhưng xét trên thực tế, học sinh có là chủ thể được không khi các em không đọc tác phẩm, không tự mình tìm hiểu và trả lời câu hỏi phần hướng dẫn đọc- hiểu của SGK (sách giáo khoa).
Với những khó khăn và thực tế trên, tôi thấy việc thực hiện một giờ dạy văn sao cho hiệu quả: vừa tạo hứng thú cho học sinh, vừa đáp ứng những đổi mới về phương pháp là một điều rất khó. Vì vậy, cần phải đi tìm những giải pháp cho vấn đề học văn của học sinh trong tình hình hiện nay. Đó chính là lí do để tôi thực hiện đề tài này.
* Phạm vi- thời gian thực hiện
Phạm vi: Lớp 9A2, 8A2 ( 2008- 2009), lớp 9A2 ( 2009- 2010) chủ yếu trong phần tìm hiểu văn bản.
Thời gian: Năm học 2008- 2009; 2009- 2010 và những năm tiếp theo.
II. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
1. Khảo sát thực trạng khi chưa thực hiện đề tài.
a. Điều tra sở thích: Khi điều tra lí lịch đầu năm học, tôi có thêm câu hỏi: Môn học mà em yêu thích ? Kết quả là:
- Năm học 2008- 2009: 9A2: 7/ 50 học sinh yêu thích môn văn
8A2: 14/ 55 học sinh yêu thích môn văn
- Năm học 2009- 2010: 9A2: 8/ 55 học sinh yêu thích môn văn
Như vậy ta có thể thấy tỉ lệ học sinh yêu thích môn văn quả là rất thấp. Hơn nữa đặc thù của trường THCS Nguyễn Trực lại thiên về các môn tự nhiên và ưu tiên cho môn học đó cũng lớn hơn môn xã hội.
b. Điều tra qua vở soạn của học sinh:
- Thực tế, những câu hỏi trong SGK của những bài văn bản thường rất sâu, rộng, có sức khái quát cao; nhưng học sinh thường trả lời qua quýt, hoặc không bám vào câu hỏi hoặc chép trong sách “ Để học tốt…” một cách vắn tắt.
Ví dụ: Bài thơ: “ Mùa xuân nho nhỏ”- SGK ngữ văn 9 có câu hỏi là: Mùa xuân của thiên nhiên đất nước được miêu tả như thế nào qua những hình ảnh, màu sắc, âm thanh ? Cảm xúc của tác giả trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân đất nước như thế nào ?
Khảo sát lớp 9A2 ( 2008- 2009) thì có 43/50 học sinh trả lời kiểu:
- Hình ảnh: Một bông hoa, chim chiền chiện, giọt sương
- Màu sắc: Xanh, tím, biếc
- Âm thanh: Tiếng chim hót vang trời
- Mùa xuân đất nước: Người cầm súng, lộc giắt trên lưng, người ra đồng, lộc trải dài nương mạ
- Cảm xúc của tác giả: Xao xuyến, rung động
* Học sinh không đọc văn bản, không đọc kĩ câu hỏi, trả lời chệch và quá sơ sài so với yêu cầu của câu hỏi.
Ví dụ: Trong bài thơ: “ Con cò”, SGK đưa câu hỏi: Nhận xét về cách vận dụng ca dao của tác giả ?
- Điều tra nhóm 1: 8/50 học sinh lớp 9A2 ( 2008- 2009) có 5 em trả lời giống nhau: “ Gợi nhịp nhàng, thong thả, bình yên trong không gian cao rộng”, “ Gợi cuộc sống vất vả, tần tảo, tấm lòng ngay thẳng, trong sạch”
Câu trả lời trên lệch so với câu hỏi do học sinh không hứng thú với văn học.
- Điều tra nhóm 2: 10/45 học sinh lớp 9A3 ( 2008- 2009 ) có 2 cách trả lời:
Cách 1: Sáng tạo, đúng chỗ
Cách 2: Vận dụng ca dao, có những câu thơ đúc kết những suy ngẫm sâu sắc.
Những câu trả lời trên chép hoặc dựa vào cuốn “ Để học tốt…” nhưng không hiểu. Khi giáo viên hỏi “ sáng tạo ở chỗ nào” học sinh không trả lời được.
c. Điều tra qua thực tế giờ dạy:
* Kiểm tra phần đọc- tóm tắt văn bản.
- Với phần đọc thơ: Đa phần học sinh đọc đúng từ ngữ nhưng còn một lượng không nhỏ đọc sai từ, sai nhịp điệu nhất là những bài thơ như: Con cò, Bếp lửa, Nói với con…
- Với tác phẩm truyện: Kiểm tra việc đọc của học sinh và tóm tắt tác phẩm thì: Có rất nhiều học sinh không trả lời được. Khi được hỏi lí do, 100 % trả lời “đọc một lần”, “đọc qua”. Thực chất có khi không đọc.
* Kiểm tra bằng cách trả lời câu hỏi hoặc thảo luận.
Học sinh trả lời sơ sài hoặc vụn vặt, diễn đạt không tốt vì thực chất không được chuẩn bị kĩ. Vì vậy giáo viên dạy rất hay bị thiếu thời gian bởi phải dừng lại rất lâu để giảng giải cặn kẽ cho học sinh hiểu.
d. Điều tra qua kết quả kiểm tra:
- Kiểm tra miệng: Nếu giáo viên không kiểm tra miệng thường xuyên thì tỉ lệ không học bài là 60%. Nếu thường xuyên kiểm tra thì tỉ lệ không học bài là 20-25%.
- Kiểm tra 15 phút: Số học sinh hiểu đúng bài không cao.
- Kiểm tra viết 1 tiết: Điểm kiểm tra không đạt kết quả cao, có ít bài viết được theo cách hiểu sáng tạo, thực tế phụ thuộc văn mẫu hoặc thuộc văn mẫu để làm bài hợp pháp. Do yêu cầu cho học sinh thi vào 10 và cũng là lương tâm nghề nghiệp, tôi thấy việc dạy văn quả là vất vả.
Với tất cả thực tế trên, nếu dạy để đạt mục đích yêu cầu: “Phát huy trí sáng tạo, khả năng độc lập, tư duy…” của học sinh là điều rất khó thực hiện.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
1. Yêu cầu để tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ dạy Văn đối với người dạy học:
a. Giáo viên dạy văn phải là người luôn tâm huyết với nghề: Luôn trau dồi, học hỏi đồng nghiệp. Đặc biệt người giáo viên phải có một tâm hồn thực sự rung động trước một tác phẩm văn học, truyền được sự rung động văn chương đó tới học sinh, tạo hứng thú yêu thích và niềm say mê môn học cho các em.
b. Trong quá trình giảng dạy phải có sự chuẩn bị bài kĩ lưỡng: Kết hợp tốt các phương pháp trong giờ dạy. Phải thực sự có kĩ năng chuyên môn, có bản lĩnh vững vàng để là người dẫn dắt, tổ chức học sinh khám phá cái hay, cái đẹp của mỗi tác phẩm văn học.
c. Phải coi trọng tính chủ động tích cực của học sinh trong việc nhận thức và cảm thụ tác phẩm văn học: Giáo dục các em lòng hứng thú say mê, yêu thích học văn, giúp các em tìm tòi cảm nhận tác phẩm một cách chủ động sáng tạo. Từ đó bồi dưỡng cho các em vốn sống, vốn hiểu biết về con người, về xã hội, nâng cao đời sống tâm hồn tình cảm cho các em.
2. Các hình thức tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Ngữ văn
a. Hệ thống câu hỏi- một yếu tố then chốt tạo nên hứng thú cho học sinh.
- Trước hết cần đánh giá đúng vai trò của câu hỏi trong giờ dạy học nói chung và giờ ngữ văn nói riêng: Rõ ràng tư duy con người chỉ bắt đầu từ một vấn đề hay từ một câu hỏi, từ một sự ngạc nhiên, thắc mắc hay mâu thuẫn. Vì thế, hệ thống câu hỏi có nhiều thuận lợi để đánh thức, rèn luyện năng lực nhận thức tư duy của học sinh. Một hệ thống câu hỏi tốt sẽ giúp cho năng lực chủ quan của học sinh được phát huy. Khi đó việc chiếm lĩnh tri thức, thưởng thức tác phẩm, hứng thú học tập mới thực sự có được và hiệu quả giảng dạy, học tập mới thực sự bền lâu.
- Từ cơ sở lí luận đó, tôi đã sử dụng hệ thống câu hỏi trong bài dạy không chỉ để nhằm mục đích chính: Đánh thức, rèn luyện tư duy nhận thức của học sinh mà còn dùng nó như một phương tiện để gây hứng thú cho người học. Vậy để làm được những điều đó, hệ thống câu hỏi ấy phải đạt được những yêu cầu gì
+ Trước hết câu hỏi phải mang “chất văn” để gợi những rung cảm văn chương góp phần tạo hứng thú cho học sinh: Văn học là bộ môn vừa mang tính nghệ thuật, vừa mang tính khoa học. Vì vậy, tôi nghĩ rằng hệ thống câu hỏi trong giờ văn phải mang “ chất văn”, “ chất nghệ thuật”. Với người giáo viên dạy văn, câu hỏi không chỉ đơn thuần là câu hỏi mà phải là “ nghệ thuật hỏi”- hỏi để đánh thức tư duy, hỏi để học sinh tự nguyện trả lời, mong muốn được trả lời. Vậy câu hỏi như thế nào là câu hỏi mang “chất văn” và mang “tính nghệ thuật”?. Nếu như ở các môn khoa học khác câu hỏi chỉ cần độ chính xác, sáng rõ, ngắn gọn kiểu như: Vì sao, tại sao, hãy giải thích, hãy chứng minh…Đó là những kiểu câu hỏi mang tính chất mệnh lệnh thì đối với môn ngữ văn, bên cạnh những yêu cầu về độ chính xác, sáng rõ, ngắn gọn, câu hỏi ấy còn phải có sự dẫn dắt, có hình ảnh, khơi gợi cảm xúc cho người học.
Ví dụ: Câu hỏi có sự dẫn dắt: Trong bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá”- Huy Cận, khi cho học sinh tìm hiểu những bức tranh đẹp về thiên nhiên và con người theo hành trình của đoàn thuyền đánh cá, người dạy hỏi: “ Bài thơ là những bức tranh đẹp lộng lẫy, lung linh sắc màu, đó là những cảnh nào ?
Câu hỏi khơi gợi cảm xúc: Trong bài thơ “ Sang thu”- Hữu Thỉnh, khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu cảm nhận không gian làng quê sang thu, giáo viên hỏi: Con người cảm nhận thu sang bắt đầu bằng: Hương ổi- phả vào trong gió se. Em có cảm nhận và hình dung như thế nào về hình ảnh đó ?
+ Tạo tình huống có vấn đề và cách giải quyết tình huống có vấn đề thông qua các câu hỏi nêu vấn đề để học sinh được trao đổi, thảo luận là yếu tố quan trọng trong phát triển hứng thú của học sinh trong giờ ngữ văn. Theo quan điểm của tôi, tạo tình huống có vấn đề là “điểm nhấn” để thu hút học sinh trong giờ học. Bởi lẽ, bản chất của câu hỏi nêu vấn đề là “mảnh đất màu mỡ” để khơi gợi năng lực tư duy, là địa điểm để các em gặp gỡ các quan điểm, ý kiến của cá nhân thông qua hình thức trao đổi, thảo luận. Bằng cách này, giáo viên đã tạo ra được không khí tích cực trong giờ dạy. Bên cạnh đó, xét về mặt tâm lí lứa tuổi, ở độ tuổi này, các em rất thích được tự khẳng định mình, mong muốn được bày tỏ ý kiến cá nhân và được ghi nhận. Sau mỗi câu trả lời, học sinh được cô động viên, khuyến khích thì các em rất hào hứng.
Tôi xin đưa ra một ví dụ về việc tạo tình huống có vấn đề như sau:
Trong văn bản: “ Chiếc lược ngà”- Nguyễn Quang Sáng, khi cho học sinh tìm hiểu, phân tích thái độ bé Thu với ông Sáu, tôi cho học sinh khai thác điểm nhấn tình huống của truyện bằng cách nêu vấn đề: “ Có ý kiến cho rằng: Khi bé Thu hất miếng trứng cá ra khỏi bát là lúc em ghét ông Sáu nhất và cũng là lúc em yêu ông Sáu nhất. Ý kiến của em như thế nào ?”
Rõ ràng đây là một câu hỏi khó, bởi lẽ để trả lời được câu hỏi này học sinh phải là người có khả năng đi sâu vào thế giới tâm lí nhân vật thì mới có thể hiểu được tâm trạng, cảm xúc, vừa mâu thuẫn, vừa nhất quán trong lòng bé Thu. Song cũng chính từ câu hỏi khó này, mà học sinh của tôi hào hứng chinh phục nó. Mỗi em góp một ý kiến. Có những câu trả lời thật sâu sắc ( của học sinh giỏi), cũng có những câu trả lời thật ngô nghê ( của học sinh trung bình, yếu). Sau các ý kiến đó tôi ghi nhận, đánh giá và đưa ra câu trả lời đầy đủ nhất, cả lớp học lặng im, chú ý nghe giảng. Nhìn gương mặt của các em khi đó tôi thiết nghĩ: Các em rất hứng thú với giờ học của mình rồi.Thậm chí tạo vấn đề để thảo luận VD: So sánh hình ảnh cái bóng ở 2 văn bản Chuyện người con gái Nam Xương và Chiếc lược ngà, nêu ý nghĩa nghệ thuật của 2 hình ảnh này?
+ Xây dựng hệ thống câu hỏi tối ưu cho giờ dạy- một cách duy trì hứng thú cho học sinh.
Như trên đã nói về vai trò quan trọng của hệ thống câu hỏi trong giờ dạy là để đánh thức, rèn luyện tư duy nhận thức của học sinh. Bên cạnh đó một hệ thống câu hỏi tốt sẽ duy trì hứng thú của học sinh như thế nào? Nhận thức của học sinh là một quá trình, hứng thú của học sinh cũng là cả một quá trình. Do đó, để duy trì được quá trình đó thì câu hỏi không được tùy tiện, nó phải được xây dựng thành một hệ thống logic có tính toán. Giáo viên phải dẫn dắt câu hỏi từ mức độ thấp đến mức độ cao. Có thế, cả lớp mới thực sự được làm việc và mới có hứng thú trong giờ học. Hệ thống câu hỏi phải từ quan sát đến phát hiện, phân tích, từ phân tích đến nhận xét, đánh giá một cách riêng lẻ đến nhận xét đánh giá ở phạm vi rộng hơn, khái quát hơn, nhằm giúp học sinh từng bước đi sâu vào tác phẩm như một chỉnh thể.
Ngoài yêu cầu về hệ thống câu hỏi tối ưu, còn phải đạt các tiêu chuẩn khác như: Câu hỏi chính xác, rõ ràng, có khả năng gợi tình cảm, xúc động thẩm mỹ cho học sinh. Nên sử dụng phong phú các loại câu hỏi: Câu hỏi phát hiện, câu hỏi giải thích, câu hỏi phân tích, câu hỏi so sánh, câu hỏi giảng bình, câu hỏi gợi liên tưởng, tưởng tượng, câu hỏi nêu vấn đề… Ngoài ra cần có sự kết hợp cân đối giữa các loại câu hỏi cụ thể và loại câu hỏi tổng hợp.
Thực tế giảng dạy đã cho thấy việc đặt hệ thống câu hỏi tối ưu đã giúp học sinh tham gia tích cực, chủ động vào bài giảng, buộc học sinh phải suy nghĩ tập trung vào vấn đề giáo viên hỏi để tìm tòi, khám phá, từng bước hiểu và cảm thụ đúng tác phẩm. Và như thế có “hiểu”, có “cảm” được tác phẩm thì mới tạo ra hứng thú cho các em.
b. Sáng tạo trong bài giảng – một cách gây hứng thú cho học sinh:
- Như chúng ta đã biết văn học là một bộ môn vừa mang tích khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Ngoài tính chính xác của khoa học thì tính nghệ thuật của bộ môn này được thể hiện qua cách tổ chức giờ dạy. Một giờ dạy văn không hề có một công thức nhất định, các giờ dạy không phải nhất nhất dập khuôn giống nhau. Nếu quan niệm như vậy thì giờ dạy văn sẽ trở nên cứng nhắc khô khan, gượng ép và như thế sao có thể tạo hứng thú với học trò.
- Vậy để cho giờ văn mang tính nghệ thuật đồng nghĩa với việc người giáo vên phải biết sáng tạo, luôn làm mới giờ dạy để mỗi giờ học là những “bí mật” thú vị mà học sinh muốn khám phá. Qua kinh nghiệm giảng dạy, tôi thấy có rất nhiều cách để sáng tạo bài giảng.
+ Sáng tạo trong cách đặt vấn đề: Giới thiệu bài mới.
Đây là hoạt động đầu tiên cho việc dạy bài mới. Nhưng ở hoạt động này người dạy thường hay xem nhẹ, thậm chí nhiều giáo viên còn bỏ qua nó. Có những thầy cô đơn giản hóa lời giới thiệu bài mới bằng điệp khúc muôn thủa:
“ Tiết trước chúng ta học bài… hôm nay chúng ta vào bài mới…”.Chính sự thờ ơ của một số giáo viên trong lời giới thiệu bài đã phần nào làm giảm đi hứng thú học của học trò. Với tôi, giới thiệu bài là một việc làm rất quan trọng và không thể thiếu bởi nó như một lời chào, là lời “dạo nhạc” cho “khúc nhạc bài giảng”. Làm tốt được điều đó sẽ tạo tâm thế cho giờ dạy, tạo hứng thú cho học sinh.
Vậy đặt vấn đề như thế nào để có hiệu quả, rõ ràng, không thể áp dụng một cách máy móc lời giới thiệu cho tất cả các tiết dạy. Muốn có lời giới thiệu hay, hấp dẫn, người dạy phải suy nghĩ đầu tư để lời giới thiệu vừa bám sát nội dung bài học, vừa tạo sự bất ngờ với học sinh. Có nhiều cách để giới thiệu: Từ cách cổ điển thông dụng như: Thuyết giảng giới thiệu đến đặt câu hỏi tạo tình huống để dẫn dắt, ta còn có thể vận dụng các phương tiện hiện đại, đồ dùng dạy học như: Xem tranh ảnh, phim, nghe nhạc… Chính những cách vào bài mới mẻ như thế luôn luôn là tâm điểm gây được sự chú ý, hứng thú cho học sinh, tạo tâm thế tốt cho tiết dạy.
+ Sáng tạo trong cách tổ chức dạy học, nội dung bài giảng
Như trên đã trình bày, một giờ dạy văn không có một công thức nhất định. Người dạy khi soạn bài phải luôn tìm tòi ra cách tổ chức dạy học phù hợp nhất với tiết dạy đó. Ở bài này là hình thức truyền thống: cô phát vấn, trò phát hiện, ở bài kia lại là hình thức trao đổi, đối thoại qua các mô hình thảo luận nhóm, lại có những bài người giáo viên mạnh dạn cho học sinh tự tìm hiểu, sưu tầm, nghiên cứu trước ở nhà rồi đến lớp thảo luận, trao đổi…
Việc đưa ra mô hình học- chơi, chơi- học cũng là một sáng tạo trong tổ chức giờ dạy có hiệu quả thông qua các trò chơi như: Giải đáp ô chữ, điền sơ đồ câu, thi tiếp sức… giờ học sẽ trở nên hào hứng, sôi nổi, kiến thức được khắc sâu một cách nhẹ nhàng.
Ngoài sáng tạo trong việc tổ chức dạy học thì sáng tạo trong nội dung bài giảng cũng là một yếu tố quan trọng để gây hứng thú cho học sinh. Nội dung của cô giáo phải phong phú, kiến thức phải chính xác, sâu rộng. Trong thực tế giảng dạy, tôi đã đúc rút được kinh nghiệm này rất nhiều.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Truyện Kiều”- Nguyễn Du, tôi có cách tóm tắt cốt truyện bằng sơ đồ sau:
Gặp gỡ và đính ước
*
Đoàn tụ
*
Từ Hải
Gia đình* Thúc Sinh Giác Duyên *
Gia biến* * * Cứu *
thoát
Mã Giám Sinh- Tú Bà*
Tự tử lần 1* Bạc*
Hạnh
Lầu xanh 1*
Hoạn Thư* Lầu xanh 2*
Hồ Tôn Hiến*
Tự tử lần 2*
15 năm lưu lạc
Nhìn vào sơ đồ, học sinh dễ dàng hình dung toàn bộ diễn biến cốt truyện, nhân vật và đặc biệt là những biến cố lớn trong cuộc đời của Kiều. Với hình thức trên, tôi đã thực sự cải tiến bài giảng của mình. Ở mỗi biến cố, tôi biểu thị trên sơ đồ bằng (*), rồi tôi chọn lọc những câu Kiều hay, tiêu biểu để minh họa. Chính những dấu hiệu đường đi lên và xuống trong sơ đồ cùng những câu Kiều tương ứng đã chứng tỏ những điều bất hạnh mà Kiều gặp phải trên đường đời 15 năm lưu lạc. Với cách tóm tắt như vậy sẽ khiến học sinh dễ thuộc, dễ nhớ tác phẩm. Các em hiểu tác phẩm và đặc biệt là tiếp nhận một cách hào hứng.
c. Hứng thú từ việc tạo một không khí văn chương cho giờ dạy giảng văn.
Muốn thu hút được sự chú ý của học sinh, giáo viên phải tạo được không khí văn chương trong giảng văn. Chính nhờ có không khí nghệ thuật ấy mà học sinh cảm nhận được cái hồn của tác phẩm, hòa tâm hồn mình đồng điệu với tác giả, tác phẩm thì nhất định giờ văn ấy sẽ thành công. Để làm được điều đó, tôi chú ý vào mấy vấn đề sau:
- Giới thiệu bài mới: Việc làm này nhất thiết phải có và phải được đầu tư thích đáng. Vai trò của việc giới thiệu bài mới đã được tôi đề cập ở phần trên. Bằng giọng nói truyền cảm, người giáo viên qua phần giới thiệu bài sẽ dẫn các em vào một tác phẩm có hiệu quả, tạo dựng được không khí văn chương, thu hút được sự chú ý của học sinh vào bài giảng
- Đọc diễn cảm: Đây là một khâu quan trọng trong giờ dạy giảng văn vì đọc trong văn là đặc trưng phương pháp giảng dạy văn đồng thời đọc diễn cảm cũng là cách tốt để tạo ra không khí văn chương cho giờ học.
Trong khâu đọc tác phẩm giáo viên cần chú trọng đến việc hướng dẫn học sinh cách đọc sao cho đúng cho hay. Vì đây là công việc quan trọng để giúp học sinh cảm thụ tác phẩm về mặt cảm tính, là chiếc cầu nối cho việc đi sâu vào hình tượng văn học.
Đối với giáo viên, đọc mẫu và hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm là bước đầu tiên để phân tích tác phẩm ở giai đoạn trực quan sinh động có tác dụng khêu gợi tưởng tượng, óc liên tưởng, cảm xúc rất cần thiết cho khâu bình g