Bảo hiểm y tế là một trong các nội dung thuộc an sinh xã hội, đặc biệt có ý nghĩa đối với cuộc sống con người. Việt Nam đã thực hiện BHYT gần 20 năm và đạt được thành tựu đáng kể. Thực hiện BHYT sẽ tạo mọi điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe. Đây là quan điểm nhất quán của Nhà nước ta hướng tới “thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe, tiến tới BHYT toàn dân” [1].
BHYT toàn dân là mục tiêu hướng tới của tất cả các quốc gia khi thực hiện chính sách BHYT. Thực hiện được BHYT toàn dân tức là đưa công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân lên đỉnh cao hiệu quả. Trong một thời gian dài thực hiện BHYT, đã đến lúc chúng ta phải xác định lộ trình cụ thể cho việc thực hiện BHYT toàn dân. Chính vì vậy, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII ngày 14 tháng 11 năm 2008 đã thông qua Luật BHYT số 25/2008/QH12.
Luật BHYT với một bước phát triển đặc biệt về quy định BHYT toàn dân là quyền và nghĩa vụ công dân với hình thức tham gia bắt buộc và đưa ra lộ trình thực hiện BHYT toàn dân cho từng nhóm đối tượng lấy. Để thực hiện lộ trình này cần phải có những nghiên cứu và những giải pháp cụ thể. Đây là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều cơ quan ban ngành và thực sự có ý nghĩa cấp thiết trong điều kiện hiện nay. Vì vậy “một số kiến nghị thực hiện BHYT toàn dân ở Việt Nam theo luật BHYT năm 2008” là thực sự cần thiết. Với phạm vi yêu cầu từ góc độ pháp luật bằng việc chú trọng tới tổ chức thực hiện, đề tài nghiên cứu được thiết kế bao gồm 3 chương:
+ Chương 1: BHYT và thực hiện BHYT toàn dân
+ Chương 2: Thực trạng về BHYT toàn dân ở Việt Nam
+ Chương 3: Một số kiến nghị thực hiện lộ trình BHYT toàn dân ở Việt Nam
Với nhận thức và kỹ năng nghiên cứu còn nhiều hạn chế, đề tài không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được những ý kiến, đóng góp của thầy cô và tất cả các bạn.
59 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2120 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số kiến nghị thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân ở Việt Nam theo luật bảo hiểm y tế năm 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm y tế là một trong các nội dung thuộc an sinh xã hội, đặc biệt có ý nghĩa đối với cuộc sống con người. Việt Nam đã thực hiện BHYT gần 20 năm và đạt được thành tựu đáng kể. Thực hiện BHYT sẽ tạo mọi điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe. Đây là quan điểm nhất quán của Nhà nước ta hướng tới “thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe, tiến tới BHYT toàn dân” [1].
BHYT toàn dân là mục tiêu hướng tới của tất cả các quốc gia khi thực hiện chính sách BHYT. Thực hiện được BHYT toàn dân tức là đưa công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân lên đỉnh cao hiệu quả. Trong một thời gian dài thực hiện BHYT, đã đến lúc chúng ta phải xác định lộ trình cụ thể cho việc thực hiện BHYT toàn dân. Chính vì vậy, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII ngày 14 tháng 11 năm 2008 đã thông qua Luật BHYT số 25/2008/QH12.
Luật BHYT với một bước phát triển đặc biệt về quy định BHYT toàn dân là quyền và nghĩa vụ công dân với hình thức tham gia bắt buộc và đưa ra lộ trình thực hiện BHYT toàn dân cho từng nhóm đối tượng lấy. Để thực hiện lộ trình này cần phải có những nghiên cứu và những giải pháp cụ thể. Đây là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều cơ quan ban ngành và thực sự có ý nghĩa cấp thiết trong điều kiện hiện nay. Vì vậy “một số kiến nghị thực hiện BHYT toàn dân ở Việt Nam theo luật BHYT năm 2008” là thực sự cần thiết. Với phạm vi yêu cầu từ góc độ pháp luật bằng việc chú trọng tới tổ chức thực hiện, đề tài nghiên cứu được thiết kế bao gồm 3 chương:
+ Chương 1: BHYT và thực hiện BHYT toàn dân
+ Chương 2: Thực trạng về BHYT toàn dân ở Việt Nam
+ Chương 3: Một số kiến nghị thực hiện lộ trình BHYT toàn dân ở Việt Nam
Với nhận thức và kỹ năng nghiên cứu còn nhiều hạn chế, đề tài không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được những ý kiến, đóng góp của thầy cô và tất cả các bạn.
CHƯƠNG 1:
BẢO HIỂM Y TẾ VÀ THỰC HIỆN BẢO HIỂM Y TẾ TOÀN DÂN
1.1. Khái quát về bảo hiểm y tế
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm y tế
Trong đời sống xã hội,con người luôn chịu sự tác động của nhiều yếu tố từ thiên nhiên, xã hội, kinh tế…Vì vậy, ngoài những tác động tích cực đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển thì sự tác động này cũng đem đến cho con người những biến cố khôn lường như động đất, núi lửa, bão lụt, hạn hán, chiến tranh, dịch bệnh, tai nạn, mất việc làm,…Những rủi ro lớn nhất là con người với vấn đề sức khỏe và sự tồn tại và phát triển. Một trong những biện pháp hiệu quả nhất mà con người tìm ra để bảo vệ mình trước những rủi ro đó là thực hiện bảo hiểm.
Bảo hiểm chính là việc con người bỏ ra một số tiền nhất định trong kết quả lao động của mình trong một quỹ dự trữ để đề phòng, khắc phục các thiệt hại xảy ra trong tương lai. Qua đó sẽ phần nào nhanh chóng khôi phục sức khoẻ, đời sống, ổn định các hoạt động. Bên cạnh những loại hình bảo hiểm mang tính thương mại thì bảo hiểm y tế là loại hình bảo hiểm phi lợi nhuận được hình thành và cũng có lịch sử hàng trăm năm. Từ cuối thế kỷ XIX, các hội tương tế đã được thành lập, ban đầu mới chỉ thành lập trong từng phường hội, xóm làng sau đó được lan rộng hơn, rồi tiến tới toàn xã hội. Hệ thống bảo hiểm xã hội lần đầu tiên được thành lập tại Đức, dưới thời thủ tướng Bismack (1850) và sau đó hoàn thiện các chế độ như bảo hiểm y tế (1883), bảo hiểm tai nạn (1884), bảo hiểm hưu trí (1889), bảo hiểm thất nghiệp (1927). Đến nay, cùng với bảo hiểm xã hội, mô hình bảo hiểm y tế mang tính xã hội với mục đích bảo vệ sức khỏe con người đã xuất hiện và phát triển ở hầu hết các quốc gia trên thế giới (khoảng 180 nước) từ châu Âu, châu Mỹ đến châu Phi và châu Á. Có thể nói rằng, bảo hiểm y tế thể hiện bản chất nhân đạo, trình độ văn minh của nhân loại với mục đích đảm bảo khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế cho dân chúng, thực hiện công bằng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.
Khái niệm về BHYT được trình bày trong cuốn "Từ điển Bách khoa Việt Nam I xuất bản năm 1995"- Nhà xuất bản từ điển Bách khoa – trang 151: "BHYT: loại bảo hiểm do Nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám bệnh và chữa bệnh cho nhân dân". Cũng như hầu hết các quốc gia, Việt Nam thừa nhận quan điểm của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) với cách tiếp cận BHYT là một nội dung thuộc an sinh xã hội và là loại hình bảo hiểm phi lợi nhuận, nhằm đảm bảo chi phí y tế cho người tham gia khi gặp rủi ro, ốm đau, bệnh tật.
Từ những góc độ chuyên sâu, khái niệm BHYT cũng được tiếp cận với những nét riêng biệt:
- Dưới góc độ kinh tế, BHYT được hiểu là sự hợp nhất tài chính của số lượng lớn những người tham gia nhằm đối phó với một loại rủi ro là bệnh tật. Nguồn tài chính do nhiều người đóng góp nên sẽ đảm bảo chi trả chi phí y tế cho những người không may gặp rủi ro bởi nó tạo ra một quỹ thống nhất. Những người tham gia bảo hiểm y tế sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh trong đó khám chữa bệnh không chỉ bao gồm vấn đề kỹ thuật y tế mà còn cả bao gồm cả yếu tố kinh tế liên quan đến chi phí khám chữa bệnh như chi phí cho nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật của bác sỹ, chi phí cho trang thiết bị vật tư y tế phục vụ khám chữa bệnh, chi phí thuốc men, dược liệu,…Quá trình thực hiện BHYT cũng chính là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung. Vì vậy, phải làm thế nào để sử dụng có hiệu quả nguồn quỹ đóng góp của người tham gia BHYT nhưng đồng thời phải nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh.
- Dưới góc độ xã hội, BHYT là một hình thức tương trợ cộng đồng nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Các thành viên trong xã hội cùng nhau đóng góp một phần thu nhập để tạo ra quỹ chung với mục đích chăm sóc y tế cho chính mình và các thành viên khác không vì mục tiêu lợi nhuận. Người tham gia BHYT khi ốm đau hay bệnh tật sẽ nhận được sự chia sẻ, giúp đỡ của cả cộng đồng do chi phí y tế của họ sẽ được quỹ chung chi trả toàn bộ hoặc phần lớn.
Tính xã hội của BHYT cũng được thể hiện rõ trong việc không phân biệt hay giới hạn đối tượng tham gia. Mọi thành viên trong xã hội không phân biệt tuổi tác, giới tính, tôn giáo, trình độ, thu nhập,…đều có quyền tham gia BHYT.
Tính xã hội của BHYT còn thể hiện ở sự giúp đỡ của Nhà nước về chăm sóc y tế. Nhà nước luôn dành một phần trong ngân sách của mình để hỗ trợ cho các hoạt động y tế và trợ giúp cho những thành viên yếu thế trong xã hội được tham gia BHYT. Nhà nước với tư cách là người quản lý xã hội, điều tiết kinh tế, ổn định đời sống nhân dân thì việc hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động y tế sẽ góp phần thực hiện vai trò trên. Dù ở chế độ chính trị và điều kiện kinh tế xã hội nào nhưng hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi BHYT là chính sách xã hội lớn mà ở đó Nhà nước giữ vai trò là người tổ chức, quản lý và bảo trợ.
- Dưới góc độ pháp lý, BHYT được coi là quyền quan trọng của mỗi cá nhân trong xã hội trong việc bảo vệ sức khoẻ của bản thân và cả cộng đồng. Bởi lẽ một trong những quyền thiêng liêng của con người được các tuyên ngôn nhân quyền khẳng định và được pháp luật của các quốc gia thừa nhận đó là quyền được chăm sóc y tế. Đa số các nước đều ghi nhận trong hiến pháp và cụ thể hoá quyền này bằng việc xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống BHYT với mục đích chăm sóc sức khoẻ cho toàn xã hội. Theo Điều 39 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “ Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân,…thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện cho mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ”. Và Điều 61 Hiến pháp quy định: công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ…”.
Nhìn từ các góc độ như trên, ta có thể thấy BHYT có những đặc điểm sau:
Một là, BHYT có phạm vi đối tượng rất rộng, bao gồm toàn thể thành viên trong xã hội không phân biệt giới tính, tôn giáo, địa vị kinh tế-xã hội, tuổi tác, tình trạng sức khoẻ…Bởi lẽ, rủi ro về sức khoẻ có thể xảy đến với tất cả mọi người ở mọi lứa tuổi, giới tính, ở mọi điều kiện, hoàn cảnh và môi trường sống, tại bất kỳ thời điểm nào. Chăm sóc sức khỏe là nhu cầu tất yếu của mỗi con người. Mặt khác, BHYT được coi là quyền quan trọng của con người nên tất cả mọi người, ai cũng có quyền tham gia BHYT. Tùy từng điều kiện kinh tế xã hội cụ thể mà pháp luật mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về đối tượng tham gia và hình thức tham gia. Đặc trưng về phạm vi đối tượng là điểm cơ bản phân biệt BHYT với các chế độ khác trong hệ thống an sinh xã hội. Có thể thấy, trong chế độ BHXH, trợ giúp xã hội hay ưu đãi xã hội thì phạm vi đối tượng được giới hạn bởi những tiêu chí, điều kiện nhất định. Đối tượng của BHXH là người lao động và thành viên gia đình của họ (trong một số trường hợp) khi gặp biến cố rủi ro làm giảm thu nhập; còn trợ giúp xã hội có đối tượng bảo vệ là toàn bộ các thành viên trong xã hội khi lâm vào tình trạng thực sự khó khăn túng quẫn cần có sự giúp đỡ về vật chất mới có thể vượt qua; ưu đãi xã hội thì có đối tượng bảo vệ là những người có công trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Như vậy, BHYT có mạng lưới bao trùm mọi đối tượng trong xã hội mà không một chế độ nào trong hệ thống an sinh xã hội rộng bằng.
Hai là, đối tượng bảo vệ của BHYT là sức khoẻ của con người khi bị ốm đau, bệnh tật…Đặt trong mục tiêu chung của an sinh xã hội là hướng tới sự bảo vệ toàn diện đối với mọi thành viên trong xã hội, BHYT thực hiện mục đích bảo vệ sức khoẻ cho mọi người dân. Người tham gia BHYT đóng góp bằng tiền mặt nhưng khi ốm đau, bệnh tật sẽ được BHYT đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh, bao gồm các dịch vụ y tế như chẩn đoán, chữa trị bệnh tật, thuốc men và chăm sóc tại bệnh viện. Chi phí cho dịch vụ khám chữa bệnh sẽ do cơ quan BHYT đảm bảo và người bệnh không phải chi trả hoặc chi trả một phần với tỷ lệ thấp.
Nếu với người lao động, BHXH giải quyết được vấn đề bù đắp hay thay thế thu nhập thông qua khoản trợ cấp (bằng tiền) cụ thể khi họ gặp biến cố, rủi ro như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, tuổi già, mất việc làm thì BHYT đảm nhận trách nhiệm khám chữa bệnh cho họ. Quyền lợi của người hưởng BHYT không phải là khoản trợ cấp bằng tiền với các mức cụ thể như trong BHXH, trợ giúp xã hội hay ưu đãi xã hội mà là các dịch vụ y tế phụ thuộc vào từng loại bệnh tật.
Ba là, BHYT là chi phí ngắn hạn, không xác định trước, không phụ thuộc vào thời gian đóng mà phụ thuộc vào mức độ bệnh tật và phụ thuộc vào nhiều khả năng cung ứng dịch vụ y tế của cơ sở khám chữa bệnh. Về nguyên tắc, người tham gia BHYT sẽ đóng một mức phí được xác định trước nhưng nếu họ bị đau ốm hay bệnh tật sẽ được khám chữa bệnh cho đến khi khoẻ mạnh trở lại. Sự đa dạng về các loại bệnh tật, nhu cầu cụ thể của mỗi bệnh nhân và khả năng cung cấp dịch vụ y tế của cơ sở y tế (trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ chuyên môn, trang thiết bị y tế, thuốc men…) chính là nguyên nhân làm cho các chi phí y tế rất khó xác định trước cho người tham gia BHYT. Phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội của mình mà các nước giới hạn và phạm vi thanh toán của BHYT. Ở các nước phát triển thường quy định hưởng chế độ chi phí y tế 100% và phạm vi đáp ứng nhu cầu cao, kể cả các yêu cầu về thẩm mỹ, dị tật bẩm sinh, các bệnh xã hội,… Ở các quốc gia có điều kiện kinh tế kém phát triển hơn hoặc trong thời kỳ đầu triển khai thực hiện BHYT thường quy định có thêm sự hỗ trợ của người bệnh với tỷ lệ nhỏ và giới hạn nhiều hơn về phạm vi dân cư.
Bốn là, quan hệ BHYT là mối quan hệ diễn ra giữa ba bên gồm bên thực hiện BHYT, bên tham gia BHYT và cơ sở khám chữa bệnh. Trong đó cơ quan BHXH là chủ thể thực hiện BHYT cho người tham gia. Người tham gia BHYT vừa có nghĩa vụ đóng phí BHYT, vừa là đối tượng trực tiếp thụ hưởng các dịch vụ khám chữa bệnh khi sự kiện BHYT xảy ra theo quy định của pháp luật. Cơ sở khám chữa bệnh là tổ chức thực hiện khám chữa bệnh và cung cấp các dịch vụ y tế cho người bệnh BHYT. Khi người tham gia BHYT sử dụng các dịch vụ khám chữa bệnh, họ sẽ đến các cơ sở y tế và các chi phí liên quan sẽ được cơ quan thực hiện BHYT chi trả toàn bộ hoặc một phần theo quy định. Như vậy, quan hệ BHYT vừa là loại hình dịch vụ bảo hiểm, vừa là loại hình dịch vụ y tế.
Hệ thống thực hiện BHYT ở các nước được tổ chức theo các mô hình khác nhau về điều kiện kinh tế xã hội, chế độ chính sách,…Tuy nhiên, dù tổ chức thực hiện với hình thức nào đi nữa cũng không thể phủ nhận được mối quan hệ ba bên của BHYT với vai trò quan trọng của cơ sở khám chữa bệnh.
1.1.2. Ý nghĩa, vai trò của bảo hiểm y tế
BHYT có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, đời sống của con người. Vai trò của BHYT thể hiện ở những điểm sau:
Một là, BHYT thực hiện chính sách an sinh, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và công bằng xã hội chăm sóc sức khoẻ.
BHYT có vai trò nhất định cho phục vụ chăm sóc sức khỏe của người dân. Với những đặc thù của mình, BHYT đã bảo đảm cho mọi người, nhất là những đối tượng “yếu thế” trong xã hội, ai cũng được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản, có chất lượng tốt; bảo vệ nhân dân khỏi gánh nặng quá sức về tài chính do chi phí của các dịch vụ y tế mà họ cần sử dụng gây nên. Khi tham gia BHYT, những người có điều kiện kinh tế khó khăn, hay họ mắc bệnh hiểm nghèo thì họ sẽ được BHYT gánh bớt khó khăn về chi phí khám chữa bệnh. Đồng thời, BHYT cũng đảm bảo cho những người bệnh có cùng nhu cầu được tiếp cận như nhau đến các dịch vụ y tế hiện có; người bệnh có nhu cầu nhiều hơn được chăm sóc nhiều hơn. Trong cuộc sống, con người có điều kiện chăm sóc sức khỏe cho chính mình và người thân của mình. Có thể nói khi có BHYT thì mỗi con người có điều kiện chăm sóc sức khỏe trung bình trong xã hội bất kể là họ giàu nghèo hay ở bất kỳ vị trí nào. BHYT cùng với sự phát triển của con người cũng sẽ được điều chỉnh phù hợp.
Từ khi ra đời, BHYT huy động và sử dụng nhiều nguồn lực để chia sẻ rủi ro; góp phần đắc lực giảm tỷ lệ mắc bệnh tật và tử vong; nâng cao sức khoẻ, tăng tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.
Hai là, BHYT có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Ngoài tính xã hội của mình BHYT còn thể hiện tính kinh tế của mình. BHYT góp phần quan trọng trong việc phát trển kinh tế, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Một xã hội dù phát triển đến đâu thì cũng chỉ được coi là một xã hội tiến bộ khi có mạng lưới y tế tốt và mọi người dân khoẻ mạnh. Sức khoẻ là tài sản quý nhất của mỗi người. Khi bị ốm đau hay mắc bệnh, con người không chỉ bị suy giảm sức khoẻ, giảm khả năng lao động mà còn ảnh hưởng đến tinh thần của họ và những người thân. Tham gia BHYT, người lao động và thành viên gia đình họ, ai cũng được chăm sóc sức khoẻ, giảm ốm đau, khỏi bệnh tật. Khi có BHYT, người tham gia được chăm sóc sức khỏe. Với thể chất và tinh thần khoẻ mạnh, người lao động mới có thể đạt được kết quả cao nhất trong công việc, năng suất lao động tăng, thu lợi về cho bản thân, gia đình, cho tổ chức và cho cả nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, nhờ có BHYT mà nhà nước giảm tải được gánh nặng đối với sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ toàn dân, ngân sách quốc gia được tập trung hơn cho phát triển kinh tế. Ngoài ra, với tư cách là một quỹ tiền tệ, quỹ BHYT được pháp luật nhiều nước (trong đó có Việt Nam) cho phép sử dụng nguồn tài chính nhàn rỗi để đầu tư sinh lời, tăng thêm nguồn thu của quỹ, từ đó quay lại phục vụ cho các hoạt động của BHYT. Qua quá trình tồn tại và phát triển, BHYT ngày càng có nhiều đóng góp quan trọng vào sự ổn định và tiến bộ xã hội.
Ba là, BHYT mang tính nhân văn, xã hội sâu sắc.
Rủi ro về sức khoẻ thường đến bất ngờ và không loại trừ ai. Đối với đa số các thành viên trong xã hội, chi phí y tế thực sự là một gánh nặng mà nhiều khi họ không thể trả nổi. Vì vậy đã có không ít các trường hợp do hoàn cảnh kinh tế mà phải “sống chung với bệnh tật” trong khi y học hoàn toàn có khả năng chữa trị được. BHYT ra đời không nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận và xuất phát từ nhu cầu khách quan của cuộc sống con người. Nhờ tham gia BHYT, người nghèo không phải đơn phương chống đỡ với những khó khăn gây ra bởi rủi ro sức khoẻ. Bởi lẽ, khi đó họ nhận được sự chia sẻ, giúp đỡ của cả cộng đồng - của người có thu nhập cao đối với người có thu nhập thấp, của người không ốm hoặc chưa ốm với người đang ốm, của người bệnh nhẹ với người bệnh nặng. Như vậy, khi tham gia BHYT, mọi người thể hiện trách nhiệm của mình trước hết là đối với bản thân, sau đó là trách nhiệm với xã hội. BHYT đã góp phần phát huy tinh thần đoàn kết, “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách” giữa các thành viên trong xã hội. Đó là những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa.
Ngoài ý nghĩa trên, BHYT còn góp phần trong việc điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư trong xã hội, là một trong những nguồn cung cấp tài chính ổn định cho các cơ sở y tế.
1.2. BHYT toàn dân và kinh nghiệm ở một số quốc gia
1.2.1. Quan điểm về BHYT toàn dân
Có nhiều cách khác nhau để tiếp cận với thuật ngữ BHYT toàn dân. Từ nguyên tắc cơ bản của BHYT cho thấy BHYT toàn dân là một nguyên tắc quan trọng của BHYT. Theo từ điển tiếng việt thì từ “toàn” có nghĩa là tất cả. Vậy “toàn dân” có nghĩa là tất cả người dân, mọi người dân.Theo đó, BHYT toàn dân là mọi người dân đều được quyền tham gia và được bảo vệ bởi hệ thống BHYT. Từ góc độ mục tiêu, mục đích tổ chức thực hiện của BHYT cho thấy BHYT toàn dân chính là mục tiêu hướng tới của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Về cơ bản, BHYT toàn dân được hiểu là toàn bộ mọi người dân của một quốc gia đều được tham gia vào hệ thống BHYT của quốc gia đó.
Toàn bộ mọi người dân của một quốc gia có thể hiểu bao gồm cả công dân nước sở tại và thậm trí cả người nước ngoài cư trú trên lãnh thổ quốc gia đó đều được tham gia vào hệ thống BHYT. Nói cách khác mọi thành viên trong xã hội đều được tham gia BHYT mà không có sự phụ thuộc vào giới tính, địa vị xã hội, thành phần xã hội, tôn giáo…Hệ thống BHYT toàn dân do Nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện và được đảm bảo bằng hệ thống pháp luật. Mọi người lao động có việc làm, có thu nhập đều có nghĩa vụ đóng góp tài chính vào hệ thống BHYT. Những thành viên khác trong xã hội cũng được tham gia BHYT tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng nhóm đối tượng mà nhận được sự hỗ trợ nhất định khi tham gia vào hệ thống BHYT này.
Theo quan điểm của một số nước từ việc quy định các đối tượng tham gia có thể thấy, BHYT toàn dân mà các nước hướng tới chính là việc độ bao phủ BHYT tới mọi tầng lớp nhân dân. Điển hình như một số nước: Đức, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan…Ở Hàn Quốc, tháng 12 năm 1963 Luật BHYT có hiệu lực và bắt đầu thực thi tại Hàn Quốc. Đến tháng 12 năm 1976 Luật BHYT đã được sửa đổi gần như hoàn toàn. Sau khi Luật BHYT được sửa đổi và áp dụng năm 1976, đối tượng tham gia BHYT được mở rộng nhanh chóng. Nếu như năm 1977 chỉ triển khai đến các công ty, hãng lớn có từ 500 công nhân trở lên, đến năm 1988 đã mở rộng đến các công ty nhỏ và bước đầu thí điểm đến những người lao động tự do, sau đó Hàn Quốc không ngừng mở rộng thêm các đồi tượng. Đến năm 1989 Hàn Quốc đã đạt độ bao phủ toàn dân với gần 100% người Hàn Quốc có BHYT [15,19]. Ở Thái Lan,Từ năm 1975 đến năm 2001, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện BHYT cho nhóm người nghèo và nhóm người bị thiệt thòi. Đến năm 1981, Chính phủ triển khai chương trình cấp thẻ cho người có thu nhập thấp (LIC) đến những người có thu nhập hàng tháng dưới 1.000 baht/tháng. Năm 1983, chương trình LIC mở rộng đến những người già trên 60 tuổi. Vào năm 1993, LIC được mở rộng đến trẻ em dưới 12 tuổi và các lãnh đạo tôn giáo [15]. Với việc ngày càng mở rộng đối tượng đến tháng 4 năm 2002 Thái Lan đã thực hiện thành công BHYT toàn dân. Như vậy, ta có thể thấy BHYT toàn dân là việc tham gia rộng rãi của mọi đối tượng trong xã hội hay chính là 100% người dân có BHYT.
Theo quan điểm của chúng ta, BHYT toàn dân là việc các đối tượng quy định trong Luật BHYT đều tham gia BHYT. Đối tượng tham gia BHYT ngày càng được mở rộng sau 3 lần thay đổi Nghị định, đặc biệt là các đối tượng: người nghèo; người có công với cách mạng; cán bộ xã phường thị trấn; đại biểu hội đồng nhân dân; thân nhân của sỹ