-Tiểu học là cấp học đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông và các cấp học trên. Là những chủ nhân tương lai của đất nước, đòi hỏi học sinh phải có vốn kiến thức cần thiết.
-Giúp học sinh có vốn kiến thức đó, nhiệm vụ của môn tiếng Việt ở tiểu học nhằm trang bị cho các em những kiến thức về hệ thống tiếng Việt, chuẩn tiếng Việt, rèn cho học sinh kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. Trong đó phân môn "Luyện từ và câu" là một trong những phân môn quan trọng có ý nghĩa to lớn trong chương trình tiểu học. Luyện từ và câu giúp học sinh mở rộng, hệ thống hoá vốn từ và trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu. Rèn cho học sinh một số kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu. Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói - viết thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp, rèn luyện phát triển tư duy, bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp cho học sinh.
-Việc bồi dưỡng và nâng cao chất lượng phân môn "Luyện từ và câu" sẽ giúp các em làm giàu vốn từ, vốn tri thức về tâm hồn. Từ đó, các em tích luỹ cho mình những kiến thức cần thiết, tạo điều kiện để các em học tốt các phân môn khác trong tiếng Việt như: Chính tả, Tập làm văn,.Đồng thời học tốt các môn học khác như: Toán, Tự nhiên-xã hội, Âm nhạc, Mĩ thuật,.Đặc biệt là khơi dậy trong tiềm thức tâm hồn học sinh lòng yêu quý sự phong phú của tiếng Việt, có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
-Mặt khác xuất phát từ nhu cầu của bản thân, xác định tốt, đúng phương pháp giảng dạy phân môn "Luyện từ và Câu", người giáo viên sẽ tìm ra những giải pháp tối ưu để nâng cao chất lượng giáo dục.
23 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 36592 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số phương pháp dạy luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
-Tiểu học là cấp học đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông và các cấp học trên. Là những chủ nhân tương lai của đất nước, đòi hỏi học sinh phải có vốn kiến thức cần thiết.
-Giúp học sinh có vốn kiến thức đó, nhiệm vụ của môn tiếng Việt ở tiểu học nhằm trang bị cho các em những kiến thức về hệ thống tiếng Việt, chuẩn tiếng Việt, rèn cho học sinh kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. Trong đó phân môn "Luyện từ và câu" là một trong những phân môn quan trọng có ý nghĩa to lớn trong chương trình tiểu học. Luyện từ và câu giúp học sinh mở rộng, hệ thống hoá vốn từ và trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu. Rèn cho học sinh một số kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu. Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói - viết thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp, rèn luyện phát triển tư duy, bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp cho học sinh.
-Việc bồi dưỡng và nâng cao chất lượng phân môn "Luyện từ và câu" sẽ giúp các em làm giàu vốn từ, vốn tri thức về tâm hồn. Từ đó, các em tích luỹ cho mình những kiến thức cần thiết, tạo điều kiện để các em học tốt các phân môn khác trong tiếng Việt như: Chính tả, Tập làm văn,...Đồng thời học tốt các môn học khác như: Toán, Tự nhiên-xã hội, Âm nhạc, Mĩ thuật,...Đặc biệt là khơi dậy trong tiềm thức tâm hồn học sinh lòng yêu quý sự phong phú của tiếng Việt, có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
-Mặt khác xuất phát từ nhu cầu của bản thân, xác định tốt, đúng phương pháp giảng dạy phân môn "Luyện từ và Câu", người giáo viên sẽ tìm ra những giải pháp tối ưu để nâng cao chất lượng giáo dục.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
-Là một giáo viên tiểu học trực tiếp giảng dạy lớp 4 theo chương trình sách giáo khoa mới, tôi không khỏi băn khoăn suy nghĩ về vấn đề này. Làm thế nào để đồng nghiệp và bản thân có được phương pháp dạy "Luyện từ và câu"cho học sinh một cách tối ưu? Làm thế nào để sự tiếp thu kiến thức của các em có hiệu quả? Để học sinh nắm vững kiến thức và vận dụng từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt là chiếc chìa khoá mở cánh cửa tri thức khoa học?
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Học sinh lớp 41, 43 trường tiểu học.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
-Khái quát những vấn đề lí luận cơ bản về năng lực sử dụng vốn từ, kĩ năng dùng từ đặt câu, sử dụng dấu câu của học sinh lớp 4.
-Thực tiễn và tình hình dạy Luyện từ và Câu cho học sinh lớp 4 Trường tiểu học.
V. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
-Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc sách báo, tạp chí, sách giáo viên, sách tham khảo…
-Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiển: Quan sát, phỏng vấn, phương pháp phân tích, đánh giá, tổng kết kinh nghiệm.
-Phương pháp thống kê toán học.
-Ngoài các phương pháp trên tôi còn sử dụng một số phương pháp khác nữa trong quá trình nghiên cứu.
B. NỘI DUNG:
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂU CHO HỌC SINH LỚP 4
I. MỤC ĐÍCH DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂU CHO HỌC SINH LỚP 4:
1. Hình thành và phát triển kĩ năng tiếng Việt:
-Thực hiện mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt ( nghe, nói, đọc, viết ) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Sách giáo khoa tiếng Việt 4 tiếp tục lấy nguyên tắc giao tiếp làm định hướng cơ bản. Việc rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt thông qua tất cả các phân môn Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn, Luyện từ và câu. Phân môn luyện từ và câu được học từ lớp 2, song đến lớp 4 mới có những tiết học dành riêng để trang bị kiến thức cho học sinh. Các em được mở rộng, hệ thống hoá vốn từ, được trang bị kiến thức sơ giản về từ, câu, kĩ năng dùng từ đặt câu, sử dụng dấu câu. Giai đoạn này, trẻ em có sự thay đổi đáng kể. Các em thích diễn đạt, thích vận dụng từ ngữ hay để nói, viết...Thế nhưng tư duy các em phát triển chưa hoàn thiện, các em chưa hiểu nghĩa từ, chưa nắm chắc kiến thức ngữ pháp tiếng Việt. Vì vậy, việc giúp các em hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng tiếng Việt là rất quan trọng. Các em nắm chắc kiến thức về từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt để học tốt các phân môn tiếng Việt và các môn học khác, là cơ sở. nền tảng cho việc học tập các bậc học trên.
2. Sử dụng từ, câu tiếng việt giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, năng lực tư duy:
-Thông qua các bài Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn, Luyện từ và câu...học sinh được rèn luyện và phát triển trí tưởng tượng ngay từ các bài thơ, bài văn...Các em hiểu tác dụng của cách dùng từ, đặt câu, sử dụng dấu câu để nói, viết đúng, viết hay, vận dụng một số biện pháp tu từ. Từ đó, các em có thể trau dồi kĩ năng vận dụng từ ngữ đưa vào ngữ cảnh phù hợp, sinh động, có thói quen
dùng từ đúng, nói viết thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp và thích học tiếng Việt.
3. Giúp học sinh ý thức và thói quen sử dụng tiếng Việt, văn hóa trong giao tiếp để trẻ tích luỹ những hiểu biết cần thiết về tiếng Việt:
-Quá trình học "Luyện từ và câu" giúp các em biết sử dụng từ ngữ phù hợp trong giao tiếp hàng ngày với bạn bè, bố mẹ và mọi người xung quanh. Bồi dưỡng cho các em biết thưởng thức cái đẹp, biết thể hiện những buồn, vui, yêu, ghét của con người. Từ đó, học sinh biết phân biệt đẹp, xấu, thiện, ác để hoàn thiện nhân cách cho bản thân. Hình thành và bồi dưỡng kĩ năng sử dụng tiếng Việt chính là tạo điều kiện cho các em trở thành những nhà ngôn ngữ học trong tương lai.
II. NỘI DUNG VÀ MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT:
1. Đối tượng để học sinh làm bài:
-Là những bài tập mở rộng vốn từ theo chủ điểm, những bài tập về từ, câu.
2. Yêu cầu cần đạt:
-Nắm kiến thức về từ ngữ qua các chủ điểm.
-Nắm kiến thức sơ giản về câu.
-Rèn cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu.
-Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu; có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp.
3. Nội dung dạy học:
Phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 được dạy trong 62 tiết : HKI : 32 tiết ; HKII 30 tiết. Bao gồm các nội dung sau:
*Mở rộng hệ thống hoá vốn từ: (19 tiết)
-Các từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá theo trường nghĩa tương đương các chủ điểm.
+ HK I: 9 tiết
Nhân hậu – Đoàn kết( tuần 2,3)
Trung thực – Tự trọng ( tuần 5,6)
Ước mơ ( tuần 9)
Ýchí – Nghị lực( tuần 12,13)
Đồ chơi – Trò chơi ( tuần 15;16)
+ HK II: 10 tiết
Tài năng ( tuần 19)
Sức khoẻ ( tuần 20)
Cái đẹp ( tuần22, 23)
Dũng cảm ( tuần 25, 26)
Du lịch – Thám hiểm ( tuần 29,30)
Lạc quan – Yêu đời ( tuần 33,34)
-Các từ ngữ được mở rộng và hệ thống thông qua các bài tập. Tìm từ ngữ theo chủ điểm. Tìm hiểu nắm nghĩa của từ; Phân loại từ ngữ. Tìm hiểu nghĩa của thành ngữ, tục ngữ theo chủ điểm; luyện sử dụng từ ngữ.
* Tiếng , cấu tạo từ:( 5 tiết)
-Cung cấp một số kiến thức sơ giản về cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từ
+ Cấu tạo của tiếng tuần 1: 2 tiết
+ Từ đơn và từ phức tuần 3: 1 tiết
+ Từ ghép và từ láy tuần 4: 2 tiết
-Các dạng bài tập : Nhận diện và phân tích cấu tạo của tiếng , từ; Phân loại từ theo cấu tạo; Tìm từ theo kiểu cấu tạo; Luyện sử dụng từ.
* Từ loại : (9 tiết)
-Cung cấp một số kiến thức sơ giản về cấu tạo từ loại của tiếng Việt .
+ Danh từ ( tuần 5,6,7,8: 5 tiết gồm cả cách viết danh từ riêng)
+ Động từ( tuần 9 và 11: 2 tiết)
+ Tính từ ( tuần 11 và 12: 2 tiết)
-Các dạng bài tập: Nhận diện từ theo loại; Luyện viết danh từ riêng; Tìm và phân loại từ theo từ loại; Luyện sử dụng từ.
* Câu : 26 tiết
-Cung cấp các kiến thức sơ giản về cấu tạo, công dụng, và cách sử dụng các kiểu câu:
+ Câu hỏi : tuần 13,14,15 – 4 tiết .
+ Câu kể : tuần 16,17,19,20,21,22,24,25,26 – 12 tiết bao gồm các kiểu câu: ai làm gì; ai thế nào; ai là gì?
+ Câu khiến : tuần 27,29- 3 tiết
+ Câu cảm : tuần 30 – 1 tiết
+ Thêm trạng ngữ cho câu: tuần 31,32,33,34 - 6 tiết
-Các dạng bài tập: Nhận dạng các kiểu câu; Phân tích cấu tạo câu; Đặt câu theo mẫu nhằm thực hiện các mục đích cho trước; Lựa chọn kiểu câu để đảm bảo lịch sự trong giao tiếp; Luyện sử câu trong các tình huống khác nhau; Luyện mở rộng câu.
* Dấu câu: 3 tiết
-Cung cấp kiến thức về công dụng và luyện tập sử dụng các dấu câu :
+ Dấu hai chấm ( tuần 2: 1 tiết )
+ Dấu ngoặc kép ( tuần 8: 1 tiết )
+ Dấu chấm hỏi( tuần 13 học cùng câu hỏi)
+ Dấu gạch ngang ( tuần 13: 1 tiết )
-Các dạng bài tập: Tìm công cụ của dấu câu; Luyện sử dụng dấu câu ( đặt dấu câu vào chỗ thích hợp, tập viết câu , đoạn có sử dụng dấu câu).
III/. CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC CHỦ YẾU:
1). Cung cấp kiến thức mới:
-Giáo viên tổ chức cho HS làm các bài tập ở phần nhận xét theo các hình thức:
+ Trao đổi chung cả lớp.
+ Trao đổi từng nhóm ( tổ; bàn; hoặc 2,3HS).
+ Tự làm cá nhân, qua đó HS rút ra kết luận theo các điểm cần ghi nhớ về kiến thức.
2). Luyện tập và mở rộng vốn từ:
-Giáo viên cho học sinh nhắc lại một số kiến thức có liên quan, rồi tổ chức cho học sinh làm các bài tập theo các hình thức trao đổi nhóm, thi đua giữa các nhóm, cá nhân. Cần lưu ý các vấn đề sau:
+ Hướng dẫn HS tìm hiểu kĩ yêu cầu của bài tập.
+ Chữa mẫu cho học sinh một phần hoặc 1 bài để hướng dẫn cách làm.
+ Hướng dẫn học sinh làm vào vở ( bảng con, bảng phụ, bảng nháp…)
+ Hướng dẫn HS nêu kết quả, chữa bài tậpvà tự kiểm tra kết quả luyện tập.
CHƯƠNG II
CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂU CHO HỌC SINH LỚP 4
I. THỰC TRẠNG DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂU CHO HỌC SINH LỚP 4.
1. Đối với giáo viên:
-Những năm gần đây, do ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng của phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Phong trào đổi mới phương pháp dạy học đã được phát động rộng rãi trong các trường Tiểu học. Vận dụng phương pháp theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học đã đóng góp vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Tuy nhiên, việc dạy phân môn luyện từ và câu không ít giáo viên vẫn chưa thoát khỏi quỹ đạo của phương pháp dạy học truyền thống. Một số giáo viên vẫn coi học sinh tiểu học là đối tượng nói theo, làm theo khuôn mẫu. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 cũ tách từ ngữ, ngữ pháp thành hai phân môn riêng biệt. Sách giáo khoa Tiếng Việt mới tích hợp từ ngữ, ngữ pháp thành phân môn luyện từ và câu. Do đó việc tiếp cận phương pháp dạy học phù hợp với sách giáo khoa mới phần nào còn khó khăn.
-Chính vì vậy cần cải tiến phương pháp dạy học "Luyện từ và câu" theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học để giờ học sinh động, hấp dẫn, hiệu quả. Là một giáo viên trực tiếp dạy lớp 4, khi nghiên cứu về phương pháp dạy học phân môn "Luyện từ và câu". Tôi đã thấy được mục đích, yêu cầu của một đơn vị kiến thức mà học sinh được chiếm lĩnh thuộc hệ thống vấn đề nào trong bài giảng. Mặt khác tôi biết cách phối hợp nhịp nhàng, khoa học và logic giữa kiến thức về từ và câu.
-Với đặc thù của phân môn luyện từ và câu là trang bị những kiến thức cơ bản về từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt để các em học tốt các môn học khác. Bởi vậy, việc bồi dưỡng và nâng cao hiểu biết về từ, câu, kĩ năng sử dụng tiếng Việt văn hoá góp phần kích thích sự phát triển tư duy, hoàn thiện nhân cách cho học sinh.
2. Đối với học sinh:
-Phải nói rằng việc nắm kiến thức từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt của học sinh lớp 4 mà tôi trực tiếp giảng dạy đầu năm học còn rất yếu. Các em chưa hiểu nghĩa của từ, cấu tạo từ, vốn từ của các em còn nghèo, không diễn đạt một cách trôi chảy những cảm nhận của mình. Nên các em dùng từ còn sai, khi nói, viết chưa trọn câu. Câu văn các em đặt chưa đạt yêu cầu. Song một điều kiện thuận lợi là các em được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập, cùng với sự tận tình của giáo viên các em thích tìm hiểu, khám phá kiến thức về tiếng mẹ đẻ.
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Trước khi lên lớp:
-Đầu năm họp cha mẹ học sinh, tôi đã báo cáo tình hình học tập của từng em. Cho cha mẹ học sinh hiểu tầm quan trọng của vốn từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt, bàn bạc cách giúp các em học tập ở nhà. Đặc biệt là ôn các kiến thức đã học ở lớp 2-3, các bài đã học, định hướng những việc cần làm cho bài mới. Vì vậy, khi lên lớp các em không bỡ ngỡ trước câu hỏi của giáo viên. Khi lập kế hoạc bài dạy, tôi luôn chú trọng đến đối tượng học sinh để lựa chọn nội dung, hình thức dạy - học hiệu quả nhất.
-Trong quá trình lên lớp tôi luôn tìm câu hỏi gợi mở giúp học sinh giải nghĩa từ hoặc phát hiện ra lỗi đặt câu...thông qua các chủ điểm của môn tiếng Việt và chủ điểm từng đơn vị học của phân môn Luyện từ và câu, tạo cho các em nguồn cảm hứng, khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước, con người. Tôi dành nhiều thời gian nghiên cứu kiến thức tiếng Việt để bản thân có vốn hiểu biết nhằm phân tích mở rộng cho các em.
2. Các biện pháp thực hiện trên lớp:
2.1. Tạo sự gần gũi hứng thú ban đầu cho các em:
-Kiểm tra bài cũ để giáo viên nắm bắt việc học ở nhà của học sinh, nhưng nếu chỉ đơn thuần là kiểm tra kiến thức của bài học trước sẽ gây cho học sinh cảm giác nhàm chán hoặc "sợ". Vì vậy, hình thức kiểm tra là rất quan trọng để
gây hứng thú học tập cho học sinh. Có thể kiểm tra bằng nhiều hình thức như: hỏi - đáp giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh, trò chơi ...
*. Ví dụ: Bài mở rộng vốn từ: Nhân hậu - Đoàn kết ( tuần 3) khi kiểm tra bài cũ tôi đã thực hiện bằng cách cho học sinh chơi trò chơi: Xếp các từ ghép có tiếng "nhân" vào hai cột.
" Nhân" có nghĩa là người
"Nhân" có nghĩa là lòng thương người
Nhân dân
Nhân hậu
Công nhân
Nhân đức
Nhân tài
Nhân từ
...
...
Thi đua giữa hai đội, đội nào xếp nhanh và đúng thì sẽ thắng.
-Phần giới thiệu bài, dẫn dắt vào bài học cũng là một nghệ thuật . Lời vào bài chỉ cần ngắn gọn, vừa đủ, không xa xôi dài dòng để học sinh cảm thấy hấp dẫn, muốn tìm hiểu, muốn nghe cô giảng.
2.2. Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu:
-Việc phân tích ngữ liệu giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập và thực hành tốt nhằm rút ra kiến thức. Giáo viên cần cho học sinh đọc thầm, trình bày yêu cầu của bài tập, giải thích thêm cho học sinh nắm rõ yêu cầu bài tập. Tổ chức cho học sinh làm bài tập bằng nhiều hình thức như: cá nhân, nhóm. Sau đó báo cáo kết quả, cả lớp cùng tham gia trao đổi, nhận xét, học sinh tự rút ra kết luận. Giáo viên chỉ khẳng định kết luận đúng hoặc bổ sung. Trao đổi với học sinh, sửa lỗi cho học sinh hoặc tổ chức cho học sinh góp ý và đánh giá cho nhau trong quá trình làm bài. Giáo viên không nhất thiết phải giải nghĩa từ mà gợi ý
cho học sinh liên tưởng, so sánh để tìm nghĩa của từ. Với những từ ngữ trừu tượng, ít gần gũi học sinh, giáo viên cần đưa vào hoàn cảnh cụ thể để học sinh hiểu nghĩa. Cuối cùng giáo viên sơ kết, tổng kết ý kiến của học sinh.
* Ví dụ : Khi dạy bài "Động từ" ( tuần 9), ở phần nhận xét sau khi cho học sinh: đọc kĩ, thảo luận theo cặp tìm các từ chỉ hoạt động của người, các từ chỉ trạng thái của vật, rồi trình bày kết quả trước lớp. Giáo viên sẽ chốt lại: Các từ nêu trên là động từ. Vậy động từ là gì? Học sinh trả lời – giáo viên khẳng định và ghi bảng. (Động từ là từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật )
2.3. Dạy nội dung mở rộng và hệ thống hoá vốn từ:
-Từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 bao gồm các từ thuần Việt, Hán Việt, thành ngữ, tục ngữ phù hợp với chủ điểm của từng đơn vị học. Để học sinh hiểu nghĩa và biết dùng từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ... thuộc các chủ điểm. Giáo viên cần gợi ý cho học sinh liên tưởng, so sánh hoặc tra từ điển để tìm hiểu nghĩa. Với những từ ngữ trừu tượng, ít gần gũi với học sinh, cần đưa chúng vào văn cảnh cụ thể để làm rõ nghĩa.
-Giáo viên cần làm cho học sinh hiểu rõ tên chủ điểm. Từ đó, học sinh có cơ sở tìm thêm các từ khác theo chủ điểm đã cho. Căn cứ vào từng đối tượng học sinh, giáo viên cần lựa chọn biện pháp dạy học cho phù hợp. Tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều được tham gia thực hành theo năng lực của mình từng bước vươn lên đạt chuẩn kiến thức và kỹ năng .
* Ví dụ: Khi dạy bài - Mở rộng vốn từ: Trung thực - Tự trọng.
Bài tập 4: Có thể dùng thành ngữ, tục ngữ nào dưới đây để nói về tính trung thực hoặc lòng tự trọng:
- Thẳng như ruột ngựa.
- Giấy rách phải giữ lấy lề.
- Thuốc đắng giã tật.
- Cây ngay không sợ chết đứng.
- Đói cho sạch rách cho thơm.
-Cho học sinh thảo luận nhóm 4, đọc kĩ nội dung bài tập, xác định yêu cầu, trao đổi tìm hiểu nghĩa của từng thành ngữ, tục ngữ ( cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng). Rồi học sinh tiến hành phân loại, sau đó báo cáo kết quả trước lớp, lớp nhận xét, bổ sung, thống nhất kết quả. Nếu câu nào các em chưa hiểu nghĩa giáo viên phải giải thích cho các em rõ. Ngoài ra, cho các em tìm thêm một số câu thành ngữ, tục ngữ có nội dung theo chủ điểm và yêu cầu học thuộc để vận dụng.
*Ví dụ: Khi dạy bài - Mở rộng vốn từ: Ước mơ.
-Học sinh bước đầu tìm được một số từ cùng nghĩa với từ ước mơ bắt đầu bằng tiếng ước, bằng tiếng mơ, ghép được từ ngữ, hiểu ý nghĩa và nhận biết được sự đánh giá của từ ngữ đó.
-Bài tập 2: Tìm thêm những từ cùng nghĩa với “ ước mơ”.
-Bắt đầu bằng tiếng “ước”: ước ao, ước muốn, ước vọng, ước mong…
-Bắt đầu bằng tiếng “mơ”: mơ tưởng, mơ ước, mơ mộng…
-Đối với bài tập này các em chỉ cần tìm thêm một thành tố thứ hai đứng sau thành tố đã cho để tạo nên một từ cùng nghĩa với “ ước mơ”.
-Nêu một ví dụ minh họa về một loại ước mơ. Như chúng ta biết trong cuộc sống ai cũng có những ước mơ của mình. Có những ước mơ chính đáng và không chính đáng. Từ đó, học sinh có thể lấy bất kỳ một ví dụ cho mỗi loại ước mơ sao cho thích hợp. Như “ Ước mơ sau này sẽ làm thầy(cô) giáo, làm kĩ sư, làm bác sĩ…tài giỏi”.
2.4. Dạy kiến thức về từ, câu, kĩ năng dùng từ, đặt câu và sử dụng dấu câu:
-Kiến thức tiếng Việt là cả một kho tàng phong phú. Ngay từ khi mới bập bẹ biết nói, các em đã biết dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp. Thế nhưng đến lớp 4 các em mới bước đầu phân tích cấu tạo của từ, câu, từ loại, cách sử dụng dấu câu.
-Trong mỗi bài học gồm 3 phần: Nhận xét, ghi nhớ, luyện tập. Theo quan điểm tích hợp phần nhận xét ( cung cấp ngữ liệu ) thường rút ra từ những bài tập đọc mà học sinh đã học, các ngữ liệu đều mang tính điển hình cao. Giáo viên cần giúp học sinh khai thác tối đa ngữ liệu được cung cấp. Khi dạy các kiến thức về từ, học sinh thường gặp khó khăn trong việc nhận diện, phân biệt từ phức, từ ghép tổng hợp, từ ghép phân loại, từ láy. Theo chương trình từ ngữ, ngữ pháp lớp 4 cũ, học sinh chỉ biết đơn giản về cấu tạo của ba từ loại: từ đơn, từ ghép, từ láy. Việc phân tích từ ghép có nghĩa tổng hợp, có nghĩa phân loại, từ ghép và từ láy, học sinh phải căn cứ trên nghĩa của từ. Vì vậy, để giúp học sinh nhận ra hệ thống từ, nhận xét về mặt cấu tạo giáo viên cần:
-Giáo viên giúp học sinh thao tác ghép các từ với từng phần trong sơ đồ lần lượt theo thứ tự tầng bậc.
* Ví dụ: Khi dạy bài " Luyện tập về từ ghép, từ láy " ( tuần 4)
-Giáo viên hướng dẫn học sinh phân loại từ " bánh trái" ( chỉ chung cho các loại bánh ) nên là từ ghép có nghĩa tổng hợp.
-Giáo viên đặt câu hỏi: Hãy kể tên một số loại bánh mà em biết ? (bánh rán, bánh cuốn, bánh mì…)
-Bánh rán, bánh cuốn, bánh mì...là chỉ riêng cho một loại bánh nên là từ ghép có nghĩa phân loại.
-Khi học sinh không phân biệt được từ ghép và từ láy, giáo viên cần giải nghĩa cho học sinh về từ ghép là từ gồm có hai tiếng có nghĩa trở lên tạo thành, các tiếng đó bổ sung nghĩa cho nhau tạo nên nghĩa mới. (Ví dụ : Từ "bờ bãi" cả hai tiếng đều có nghĩa). Còn từ láy là từ gồm hai tiếng trở lên phối hợp theo cách lặp âm hay vần hoặc lặp hoàn toàn cả âm lẫn vần. ( Ví dụ: Từ "luôn luôn", "rì rào"). Vì vậy "bờ bãi " là từ ghép không phải từ láy mặc dù phần âm đầu giống nhau.
-Trong kiến thức về từ loại, phần danh từ học sinh rất khó khăn trong việc nhận diện danh từ chỉ khái niệm, danh từ chỉ đơn vị. Vì vậy, khi dạy phần này giáo viên cần đưa ba dấu hiệu để giúp học sinh nhận diện danh từ chỉ khái niệm là :
-Những từ chỉ sự vật có thể cảm nhận bằng trí óc như: đạo đức, kinh nghiệm,... Những từ được chuyển hoá từ động từ hoặc tính từ khi ghép với các từ " sự ", " cuộc", " lòng ", ... như: lòng kiên nhẫn, sự hi sinh, ...
-Thường là từ gốc Hán như : Truyền thống, Tổ quốc, ...
-Đối với việc giúp học sinh phân