Chúng ta đang sống trong một thế giới văn minh hiện đại nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật , những thành tựu mới của công nghiệp hóa, cơ giới hóa. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù con người luôn tìm mọi cách kiểm soát, vận hành nó một cách an toàn nhưng vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Thuật ngữ “nguồn nguy hiểm cao độ” xuất hiện trong khoa học pháp lý để chỉ những sự vật như vậy, bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng được pháp luật đề cập, điều chỉnh. Tuy vậy, pháp luật dân sự thế giới cũng như Việt Nam không có bất kỳ một khái niệm đầy đủ nào về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Với mong muốn tìm hiểu những vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để có thể hoàn thiện kiến thức một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, em đã quyết định chọn đề tài: “Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” làm đề tài cho bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam module 2 của mình.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do chưa có điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn tài liệu, lại phải đề cập đến một vấn đề phức tạp, mang tính thực tiễn cao nên bài làm khó tránh khỏi sai sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo giúp đỡ của các thầy cô để em có thể tiếp tục hoàn thiện kiến thức của mình. Em xin chân thành cảm ơn!
24 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2016 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A – ĐẶT VẤN ĐỀ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới văn minh hiện đại nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật , những thành tựu mới của công nghiệp hóa, cơ giới hóa. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy… bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù con người luôn tìm mọi cách kiểm soát, vận hành nó một cách an toàn nhưng vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Thuật ngữ “nguồn nguy hiểm cao độ” xuất hiện trong khoa học pháp lý để chỉ những sự vật như vậy, bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng được pháp luật đề cập, điều chỉnh. Tuy vậy, pháp luật dân sự thế giới cũng như Việt Nam không có bất kỳ một khái niệm đầy đủ nào về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Với mong muốn tìm hiểu những vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để có thể hoàn thiện kiến thức một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, em đã quyết định chọn đề tài: “Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” làm đề tài cho bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự Việt Nam module 2 của mình.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do chưa có điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn tài liệu, lại phải đề cập đến một vấn đề phức tạp, mang tính thực tiễn cao nên bài làm khó tránh khỏi sai sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo giúp đỡ của các thầy cô để em có thể tiếp tục hoàn thiện kiến thức của mình. Em xin chân thành cảm ơn!
B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một dạng cụ thể của trách nhiệm dân sự. Một cách khái quát, có thể hiểu: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm của một hay nhiều chủ thể phải gánh chịu những biện pháp cường chế Nhà nước nhất định khi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tự do, tài sản, các quyền vè lợi ích hợp pháp hoặc vi phạm nghĩa vụ dân sự đối với bên có quyền nhưng không có quan hệ hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005, về nguyên tắc chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ bốn điều kiện: Có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại; người gây thiệt hại có lỗi.
Thứ nhất, phải có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi mục đích của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình trạng tài sản cho người bị thiệt hại, do đó không có thiệt hại thì không đặt vấn đề bồi thường cho dù có đầy đủ các điều kiện khác. Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Tring trách nhiệm dân sự, chỉ cần có thiệt hại dù không nghiêm trọng cũng phải bồi thường. Vì thiệt hại là điều kiện bắt buộc phải có trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, không có thiệt hại thì không phải là bồi thường nên trước tiên cần xác định thế nào là thiệt hại.
Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.
Thứ hai, phải có hành vi trái pháp luật.
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật.
Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động. Chủ thể thực hiện hành vi đó mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó.
Hành vi gây thiệt hại có thể là hành vi hợp pháp nếu người thực hiện hành vi đó theo nghĩa vụ mà pháp luật hoặc nghề nghiệp buộc họ phải thực hiện các hành vi đó. Trong trường hợp này người gây thiệt hại không phải bồi thường; người gây thiệt hại không phải bồi thường trong trường hợp phòng vệ chính đáng, trong tình thế cấp thiết hoặc có sự đồng ý của người bị thiệt hại (khoản 1 Điều 613 BLD; Điều 614 BLDS). Tuy nhiên, nếu vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng, vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì vẫn phải bồi thường.
Thứ ba, phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật.
Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Điều này được quy định tại điều 604 BLDS dưới dạng: “Người nào… xâm phạm…mà gây thiệt hại”, thì phải bồi thường. Việc xem xét mối quan hệ nhân quả này chỉ có ý nghĩa khi hành vi của con người và hậu quả của hành vi đó được đánh giá dưới góc độ xã hội, trong đó đặc biệt chú trọng đến hành vi con người, liên quan đến con người vào thời điểm có hành vi và hậu quả xảy ra.
Thứ tư, phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.
a) Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
b) Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Cần chú ý là đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trường hợp cụ thể của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Ngoài việc áp dụng những nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra còn có những điểm riêng biệt. Có thể hiểu một cách khái quát, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm phát sinh cho người sở hữu, chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ khi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh.
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
2.1.1. Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ.
Khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 không đưa ra một định nghĩa khái quát về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ có quy định mang tính liệt kê: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”.
Nguồn nguy hiểm cao độ theo Điều 623 được hiểu là những vật đang tồn tại hiện hữu mà hoạt động vận hành, sản xuất, vận chuyển, bảo quản… chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh. Tính nguy hiểm của nó còn thể hiện ở chỗ con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối nguy cơ gây thiệt hại.
Theo tinh thần Khoản 1 Điều 623, ngoài những loại nguồn nguy hiểm cao độ đã được liệt kê trong điều này, còn có những loại nguồn nguy hiểm cao độ khác theo quy định của pháp luật. Trong thực tế có những sự vật chưa từng được pháp luật quy định là nguồn nguy hiểm cao độ nhưng nếu có đầy đủ tính chất của nguồn nguy hiểm cao độ thì có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ không, ví dụ: hoạt động gây thiệt hại của xe đạp điện, xe máy có dung tích xi lanh dưới 50 cm3 (khái niệm “phương tiện giao thông vận tải cơ giới” trong các văn bản hiện nay không quy định những phương tiện này là nguồn nguy hiểm cao độ), ong bò vẽ, rắn độc, chó dại, trâu điên… Theo người viết, khi xem xét sự vật gây thiệt hại có phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không, cần căn cứ vào tính chất của sự vật đó như: mức độ nguy hiểm; khả năng kiểm soát của con người đối với sự vật; quy định của pháp luật liên quan đến việc trông giữ, sử dụng… Xe đạp điện hay xe máy có dung tích xi lanh dưới 50cm3 là những phương tiện giao thông có gắn động cơ, khi tham gia giao thông có thể đạt vận tốc lớn, có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản người khác, vì vậy cần được xẹm là nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với trường hợp chó dại, trâu điên gây thiệt hại tới tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người, mặc dù rất nguy hiểm nhưng đây là những động vật đã được thuần hóa, không còn mang tính chất hoang dã, không thể coi là “thú dữ”. Mặt khác, BLDS đã có riêng điều luật quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 625) áp dụng đối với chủ sở hữu, người quản lý súc vật nên không thể áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được. Trong khi đó, ong bò vẽ, rắn độc mặc dù không phải là “thú dữ” (theo các định nghĩa trong từ điển) nhưng phải coi là nguồn nguy hiểm cao độ vì đây là loại động vật còn mang tính hoang dã, chưa được thuần hóa và có tính chất nguy hiểm lớn. Việc xác định một vật có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ hay không sẽ phải căn cứ vào các quy định của pháp luật và tính chất của sự vật đó. Nguồn nguy hiểm cao độ không chỉ bao gồm những sự vật được liệt kê tại Điều 623 Bộ luật dân sự mà còn bao gồm những sự vật khác mà hoạt động của chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh, con người không thể hoàn toàn kiểm soát được nguy cơ gây thiệt hại. Đối với nguồn nguy hiểm cao độ, pháp luật thường có những quy định nghiêm ngặt trong việc trông giữ, vận hành, sử dụng, vận chuyển… chúng để tránh gây thiệt hại. Vì vậy, xác định nguồn nguy hiểm cao độ không chỉ căn cứ vào khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ tại Điều 623 Bộ luật dân sự mà còn phải căn cứ vào các văn bản, các quy định khác có liên quan.
Thiệt hại liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm rất đa dạng và do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, chỉ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau:
Thứ nhất: Những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ phải đang trong tình trạng vận hành, hoạt động như: phương tiện giao thông vận tải cơ giới đang tham gia giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải điện; nhà máy công nghiệp đang hoạt động… Trường hợp thiệt hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái “tĩnh” – không hoạt động thì không thể coi là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, ví dụ: xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt xuống chân dốc gây thiệt hại; cột điện bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện; thú dữ chết thối rữa gây dịch bệnh…
Thứ hai: thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra.
Có quan điểm cho rằng các vật là vô tri vô giác, vì vậy chúng không thể gây thiệt hại nếu không có sự tác động của con người. Quan điểm này cho rằng đằng sau việc gây thiệt hại của một vật bao giờ cũng có sự tác động của con người. Chiếc xe gây tai nạn là do người lái xe làm cho nó chuyển động. Quan điểm này đánh đồng tất cả các thiệt hại đều do con người gây ra, vì vậy các thiệt hại đều quy về một nguyên tắc bồi thường thiệt hại nói chung.
Tuy nhiên, không phải mọi thiệt hại do vật gây ra đều có sự tác động của con người. Nhiều trường hợp, hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ nằm ngoài sự kiểm soát, chế ngự của con người và tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại. Việc xác định thiệt hại là do “tác động của người” hay “tác động của vật” có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng do “tác động của con người”, do hành vi của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Hầu hết các vụ tai nạn, thiệt hại đều có sự tham gia của vật với vai trò trung gian như là công cụ, phương tiện mà con người sử dụng để gây thiệt hại như: đặt mìn để gây thiệt hại cho người khác, để đánh cá; dùng súng sát thương người khác; lái xe phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn; dùng chất độc để đầu độc người khác; dùng nguồn điện để gài bẫy trộm; nhốt người vào chuồng hổ cho con thú tấn công… Những trường hợp này thiệt hại hoàn toàn do hành vi có chủ ý của con người chứ không phải do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại.
Trường hợp thiệt hại xảy ra do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người thì sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như: xe ô tô đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật…
Một điểm cần lưu ý là hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ phải có tính trái pháp luật. Hoạt động của xe cần trục, xe ủi… khi phá dỡ các công trình xây dựng trái phép không thể coi là trái pháp luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính của nguồn nguy hiểm cao độ mà việc gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái pháp luật. Ví dụ, để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp luật và ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 Bộ luật dân sự). Nói tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
2.1.2. Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh”.
Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Có những chủ thể do mối quan hệ sở hữu, lao động mà họ trực tiếp tiếp xúc với nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”- là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
Do đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là những loại tài sản có khả năng gây ra thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con người nên không thuộc phạm vi tác động của nguồn nguy hiểm cao độ.
2.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra.
Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ. Khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, điểm mấu chốt quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng
2.1.4. Bàn về điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Theo quan điểm cổ điển, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi có điều kiện lỗi. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Điều kiện này trong nhiều trường hợp thực tế là không thể thực hiện được khi thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của ai cả. Khuynh hướng xác định trách nhiệm bồi thường dựa trên ý niệm lỗi nhiều khi không bảo đảm được một cách hiệu quả quyền lợi cho nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng
Để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân chống lại việc gây ra tai nạn, có quan điểm cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp có thể phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Thực tế cho thấy các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa, cơ giới hóa, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người. Nếu trong mọi trường hợp xảy ra thiệt hại đều buộc người bị hại dẫn chứng lỗi thì không khác gì gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi thường thiệt hại của nạn nhân. Vì vậy, khi có việc gây thiệt hại, người bị thiệt hại được bảo đảm bồi thường ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”. Quy định này trên thực tế hiện nay dẫn đến ba cách hiểu khác nhau.
Quan điểm thứ nhất căn cứ vào nguyên nhân gây ra thiệt hại, theo đó, nếu thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ thì áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bất kể có lỗi hay không có lỗi của người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Như vậy, những thiệt hại do phương tiện giao thông, công trình, thú dữ, do sử dụng vũ khí, chất nổ, chất cháy, điện… gây ra đều được áp dụng trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trường hợp thiệt hại do hành vi của con người, không liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm cao độ thì áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Việc xác định trách nhiệm theo quan điểm này có ưu điểm bảo vệ được quyền lợi cho nạn nhân nhưng lại có khuynh hướng đè nặng trách nhiệm cho người sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ, bởi lẽ có nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra là do hành vi trái pháp luật, do lỗi của người khác. Ví dụ: Do có mối thù với A, B đã bí mật tháo phanh xe ô tô của A với mục đích gây tai nạn cho A. Khi A đang lái xe trên đường, do xe mất phanh nên A gây tai nạn cho C là người đang tham gia giao thông. Trong trường hợp này, A là chủ sở hữu đồng thời là người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ nên theo quan điểm trên, A có trách nhiệm bồi thường. Cách xác định trách nhiệm bồi thường như vậy là không hợp lý và xác định không chính xác người phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường.
Quan điểm thứ hai cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm hoàn toàn loại trừ yếu tố lỗi của người sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng có một phần lỗi của người đang trông giữ, vận hành, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ thì áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn không có lỗi của con người thì mới áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trên thực tế rất khó xác định thiệt hại xảy ra hoàn toàn không có lỗi của con người và như vậy, dường như quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khó có thể áp dụng trên thực tế.
Quan điểm thứ ba theo hướng dung hòa hai quan điểm trên. Nếu như các trường hợp bồi thường thiệt hại thông thường dựa trên sự suy đoán lỗi