Nguồn lực con người là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển. Con người vừa là động lực vừa là mục tiêu mà nếu thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ không có sự phát triển. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi lợi thế sự phát triển đang chuyển dần từ yếu tố tài nguyên thiên nhiên dồi dào, giá nhân công rẻ sang nguồn nhân lực ổn định và có chất lượng.
Nước ta là nước kinh tế đang phát triển, các nguồn tài nguyên thiên nhiên không nhiều vì vậy Đảng ta xác định phải "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" với mục tiêu "nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài" (Văn kiện đại hội VIII, Nxb chính trị Quốc gia). Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với đào tạo nghề là phải tạo ra được đội ngũ lao động kỹ thuật đủ về số lượng, mạnh về chất lượng.
Thành phố Đà Nẵng được xác định là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ của miền Trung và cả nước với mức tăng trưởng kinh tế liên tục và khá ổn định gắn liền với các mặt tiến bộ trong đời sống xã hội, cơ sở hạ tầng phát triển, đô thị được chỉnh trang Thành phố Đà Nẵng đã và đang quan tâm phát triển đào tạo nghề để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của thành phố.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu ở trường cùng với thời gian thực tập ở Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng đào tạo nghề của các cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” nhằm vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn phát triển công tác đào tạo nguồn nhân lực nói chung và đào tạo nghề cho người lao động thành phố Đà Nẵng nói riêng.
49 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 976 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng đào tạo nghề của các cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Nguồn lực con người là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển. Con người vừa là động lực vừa là mục tiêu mà nếu thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ không có sự phát triển. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi lợi thế sự phát triển đang chuyển dần từ yếu tố tài nguyên thiên nhiên dồi dào, giá nhân công rẻ sang nguồn nhân lực ổn định và có chất lượng.
Nước ta là nước kinh tế đang phát triển, các nguồn tài nguyên thiên nhiên không nhiều vì vậy Đảng ta xác định phải "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" với mục tiêu "nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài" (Văn kiện đại hội VIII, Nxb chính trị Quốc gia). Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với đào tạo nghề là phải tạo ra được đội ngũ lao động kỹ thuật đủ về số lượng, mạnh về chất lượng.
Thành phố Đà Nẵng được xác định là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ của miền Trung và cả nước với mức tăng trưởng kinh tế liên tục và khá ổn định gắn liền với các mặt tiến bộ trong đời sống xã hội, cơ sở hạ tầng phát triển, đô thị được chỉnh trang Thành phố Đà Nẵng đã và đang quan tâm phát triển đào tạo nghề để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của thành phố.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu ở trường cùng với thời gian thực tập ở Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng đào tạo nghề của các cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” nhằm vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn phát triển công tác đào tạo nguồn nhân lực nói chung và đào tạo nghề cho người lao động thành phố Đà Nẵng nói riêng.
* Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ thực trạng đào tạo nghề trên các mặt: quy mô đào tạo, cơ cấu đào tạo, chất lượng đào tạo, tìm ra những bất cập hiện nay về đào tạo nghề ở thành phố Đà Nẵng.
- Đưa ra những quan điểm và giải pháp nhằm phát triển công tác đào tạo nghề cho người lao động ở thành phố Đà Nẵng.
* Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Trên cơ sở đánh giá chung về tình hình kinh tế - xã hội, lao động thành phố Đà Nẵng đề tài đi sâu nghiên cứu đào tạo nghề cho người lao động.
- Phạm vi nghiên cứu tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận và sự cần thiết đào tạo nghề; phân tích đánh giá thực trạng đào tạo nghề trong những năm qua từ đó đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát triển công tác đào tạo nghề cho người lao động ở thành phố Đà Nẵng.
* Phương pháp nghiên cứu: Thông qua các phương pháp thống kê, khảo sát, phân tích tổng hợp để nghiên cứu đề tài.
* Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I: Khái quát chung về hoạt động đào tạo nghề
Phần II: Thực trạng hệ thống đào tạo nghề trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Phần III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề tại thành phố Đà Nẵng
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
UBND : Ủy ban nhân dân
HĐND : Hội đồng nhân dân
LĐ - TB&XH : Lao động - Thương binh và Xã hội
KT - XH : Kinh tế - xã hội
THCS : Trung học cơ sở
PTCS : Phổ thông cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
CNKT : Công nhân kỹ thuật
CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo
KHKT : Khoa học kỹ thuật
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng1: Lực lượng lao động thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 - 2009
Bảng 2: Quy mô tuyển sinh đào tạo nghề tại Đà Nẵng từ năm 2005 - 2010
Bảng 3: Số lượng cơ sở đào tạo nghề thành phố Đà Nẵng (31/12/2010)
Bảng 4: Cơ sở vật chất, giá trị đầu tư trang thiết bị của cơ sở đào tạo nghề năm 2010
Bảng 5: Cán bộ công nhân viên chức đào tạo nghề thành phố Đà Nẵng năm 2010
PHẦN 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ
I. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ.
1. Khái niệm đào tạo nghề.
1.1. Khái niệm đào tạo.
Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm truyền đạt các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn, tạo ra năng lực để thực hiện thành công một hoạt động nghề nghiệp hoặc xã hội cần thiết.
Như vậy đào tạo là sự phát triển có hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cho mỗi cá nhân để họ thực hiện một nghề hoặc một nhiệm vụ cụ thể một cách tốt nhất. Đào tạo được thực hiện bởi các loại hình tổ chức chuyên ngành nhằm thay đổi hành vi và thái độ làm việc của con người, tạo cho họ có khả năng đáp ứng được tiêu chuẩn và hiệu quả của công việc chuyên môn.
1.2. Khái niệm nghề.
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
Nghề bao gồm nhiều chuyên môn. Chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh vẽ) với tư cách là những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã hội.
Trình độ lành nghề: Trình độ lành nghề của người lao động thể hiện ở chất lượng lao động. Nó thể hiện ở sự hiểu biết lý thuyết, kỹ thuật sản xuất và kỹ thuật lao động để hoàn thành công việc có trình độ phức tạp nhất định thuộc một nghề nghiệp, một chuyên môn nào đó. Trình độ lành nghề biểu hiện ở tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật (với công nhân) và ở tiêu chuẩn nghiệp vụ đảm nhận công việc được giao (với cán bộ chuyên môn). Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật và tiêu chuẩn nghiệp vụ do Nhà nước qui định.
1.3. Khái niệm đào tạo nghề.
Đào tạo nghề là những hoạt động nhằm mục đích nâng cao tay nghề hay kỹ năng, kỹ xảo của mỗi cá nhân đối với công việc hiện tại và trong tương lai. Đào tạo nghề bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau. Đó là:
- Dạy nghề: là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết và thực hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp.
- Học nghề: là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và thực hành của người lao động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất định.
2. Phân loại đào tạo nghề.
Đào tạo nghề cho người lao động bao gồm đào tạo nghề mới, đào tạo lại nghề, đào tạo nghề bổ sung.
- Đào tạo nghề mới: Là đào tạo những người chưa có nghề, gồm những người đến tuổi lao động chưa được học nghề, hoặc những người trong độ tuổi lao động trước đó chưa được học nghề. Đào tạo mới nhằm đáp ứng tăng thêm lao động qua đào tạo nghề cho xã hội.
- Đào tạo lại nghề: Là đào tạo đối với những người đã có nghề, có chuyên môn nhưng do yêu cầu mới của sản xuất và tiến bộ kỹ thuật dẫn đến việc thay đổi cơ cấu ngành nghề, trình độ chuyên môn. Một số công nhân được đào tạo lại cho phù hợp với cơ cấu ngành nghề và trình độ kỹ thuật mới.
- Bồi dưỡng nâng cao tay nghề: Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật hóa kiến thức còn thiếu, hoặc đã lạc hậu, bổ túc nghề, đào tạo thêm hoặc củng cố các kỹ năng nghề nghiệp theo từng chuyên đề và thường được xác định bằng một chứng chỉ hay nâng lên bậc cao hơn.
3. Tầm quan trọng của hoạt động đào tạo nghề.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với con đường phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) đất nước, để phát triển kinh tế thì chúng ta cần phát huy và tận dụng rất nhiều nguồn lực như: nguồn lực tự nhiên, nguồn nhân lực, vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật - công nghệ tiên tiến hiện đại Cùng với khoa học kĩ thuật - công nghệ và nguồn vốn thì nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế - xã hội (KT - XH) ở nước ta. Phát triển nhân lực đảm bảo cả về số lượng và chất lượng là động lực quan trọng để phát triển KT - XH, nâng cao năng lực cạnh tranh của nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đào tạo nguồn nhân lực đòi hỏi phải có chuyên môn, trình độ mới đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp, đáp ứng được đòi hỏi mà những biến đổi đến chóng mặt của nền kinh tế và quá trình phát triển công nghệ đặt ra. Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng sự nghiệp CNH - HĐH đất nước là một chiến lược quốc gia trong toàn bộ chiến lược phát triển GD&ĐT.
Trong công tác GD&ĐT, hoạt động đào tạo nghề được xem như là một trong những quốc sách hàng đầu để đào tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, đủ sức tiếp thu và làm chủ khoa học công nghệ, đi tắt đón đầu, tạo tiền đề để bứt phá rút ngắn quá trình CNH - HĐH đất nước. Hệ thống đào tạo nghề cung cấp một lượng lớn lao động có tay nghề, có trình độ, kỹ năng đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Như vậy, đào tạo nghề cho lao động để có được nguồn nhân lực chất lượng cao là lợi thế trong thu hút đầu tư và phát triển KT - XH của địa phương.
4. Các hình thức đào tạo nghề.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của kế hoạch đào tạo là xác định các hình thức đào tạo thích hợp. Hình thức đào tạo là cơ sở để xây dựng kế hoạch đào tạo, đồng thời cũng là cơ sở để tính toán hiệu quả kinh tế của các hình thức đào tạo, là so sánh giữa chi phí đào tạo với hiệu quả đem lại sau khi đào tạo. Tùy theo yêu cầu và điều kiện thực tế có thể áp dụng hình thức đào tạo này hay hình thức đào tạo khác. Những hình thức đào tạo nghề đang được áp dụng chủ yếu hiện nay là:
4.1. Các trường chính quy.
Đào tạo nghề ở các trường chính quy đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày càng phát triển trên cơ sở kỹ thuật hiện đại, các Bộ hoặc Ngành thường tổ chức các trường dạy nghề tập trung với quy mô lớn, đào tạo công nhân có trình độ cao, chủ yếu là đào tạo đội ngũ CNKT, kỹ thuật viên có trình độ cao. Thời gian đào tạo từ hai đến bốn năm tùy theo nghề đào tạo. Ra trường được cấp bằng nghề.
Khi tổ chức các trường dạy nghề cần phải có bộ máy quản lý, đội ngũ giáo viên chuyên trách và cơ sở vật chất riêng cho đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào tạo các trường cần phải đảm bảo các điều kiện sau đây:
+ Phải có đội ngũ giáo viên đủ khả năng chuyên môn và kinh nghiệm giảng dạy.
+ Phải được trang bị máy móc, thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập, các phòng thí nghiệm, xưởng trường. Nhà trường cần tổ chức các phân xưởng sản xuất vừa phục vụ cho giảng dạy vừa sản xuất của cải vật chất thì nên để gần các doanh nghiệp lớn của ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho dạy và học. Các tài liệu và sách giáo khoa phải được biên soạn thống nhất cho các nghề, các trường.
4.2. Các trung tâm dạy nghề.
Đây là loại hình đào tạo ngắn hạn, thường dưới 1 năm. Chủ yếu là đào tạo phổ cập nghề cho thanh niên và người lao động.
Hình thức đào tạo này thu hút được nhiều người theo học vì thủ tục xin vào học dễ dàng, thời gian học vừa phải, kinh phí hợp lý. Có thể mở các lớp ngắn hạn với thời gian, ngành nghề khác nhau một cách linh hoạt. Các trung tâm đào tạo nghề thường gắn với giới thiệu việc làm nên cơ hội có việc làm của người học dễ dàng hơn sau khi học xong, rất thích ứng với nhu cầu thị trường lao động, nhu cầu người học, chi phí đầu tư đào tạo không lớn.
4.3. Các lớp cạnh doanh nghiệp.
Các lớp cạnh doanh nghiệp là các lớp do doanh nghiệp tổ chức nhằm đào tạo riêng cho mình hoặc cho các doanh nghiệp cùng ngành, cùng lĩnh vực. Chủ yếu đào tạo nghề cho công nhân mới được tuyển dụng, đào tạo lại nghề, nâng cao tay nghề, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật mới.
Hình thức đào tạo này không đòi hỏi có đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật riêng, không cần bộ máy chuyên trách mà dựa vào các điều kiện sẵn có của doanh nghiệp. Chương trình đào tạo gồm hai phần: Lý thuyết và thực hành sản xuất. Phần lý thuyết được giảng tập trung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật phụ trách. Phần thực hành được tiến hành ở các phân xưởng do các kỹ sư hoặc công nhân lành nghề hướng dẫn.
4.4. Kèm cặp trong sản xuất.
Kèm cặp trong sản xuất là hình thức đào tạo trực tiếp tại nơi làm việc, chủ yếu là thực hành ngay trong quá trình sản xuất do xí nghiệp tổ chức.
Kèm cặp trong sản xuất được tiến hành dưới hai hình thức: Kèm cặp theo cá nhân hoặc kèm cặp theo tổ chức, đội sản xuất. Với kèm cặp theo cá nhân, mỗi thợ học nghề được một công nhân có trình độ tay nghề cao hướng dẫn. Người học nghề vừa sản xuất vừa tiến hành dạy nghề theo kế hoạch. Với hình thức kèm cặp theo tổ, đội sản xuất, tổ học nghề được tổ chức thành từng tổ và phân công cho những công nhân dạy nghề thoát ly sản xuất chuyên trách đảm nhận dạy nghề. Những công nhân dạy nghề phải có trình độ văn hóa, trình độ nghề nghiệp và phương pháp sư phạm nhất định.
II. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ.
1. Cơ sở vật chất, trang thiết bị của các cơ sở đào tạo nghề.
Đây là yếu tố hết sức quan trọng nó tác động trực tiếp lên chất lượng đào tạo nghề ứng với mỗi nghề dù đơn giản hay phức tạp cũng cần phải có các máy móc, trang thiết bị chuyên dùng phục vụ cho giảng dạy và học tập. Trang thiết bị đào tạo nghề giúp cho học viên có điều kiện thực hành để hoàn thành kỹ năng sản xuất. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo nghề càng tốt, càng hiện đại bao nhiêu, theo sát với máy móc phục vụ cho sản xuất bao nhiêu thì người học viên có thể thích ứng, vận dụng nhanh chóng với sản xuất trong doanh nghiệp bấy nhiêu.
Chất lượng của các trang thiết bị, cơ sở vật chất đòi hỏi phải theo kịp tốc độ đổi mới hiện đại hóa của máy móc thiết bị sản xuất.
Thực chất ở các cơ sở đào tạo nghề ở nước ta hiện nay, cơ sở vật chất trang thiết bị dạy nghề còn rất hạn chế, lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu đào tạo nghề. Phòng học thiếu thốn nơi thực hành, chỗ nội trú cho học viên. Một phần lớn các trang thiết bị trong các cơ sở đào tạo nghề không phải là trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo nghề một cách chính quy, nhiều máy móc được thu nhập lại từ nhiều nguồn khác nhau (chủ yếu là thanh lý của các nhà máy, xí nghiệp), do đó không có tính đồng bộ về hệ thống, tính sư phạm thấp ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tuy công nhân qua đào tạo đáp ứng được phần nào các công việc của các doanh nghiệp nhưng hầu hết vẫn phải đào tạo lại để nâng cao khả năng thực hành và tiếp cận công nghệ hiện đại của các cơ sở sản xuất.
2. Giáo viên đào tạo nghề.
Giáo viên đào tạo nghề là người giữ trọng trách truyền đạt kiến thức kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm của mình cho các học viên trên cơ sở thiết bị dạy học. Vì vậy, năng lực giáo viên đào tạo nghề tác động trực tiếp lên chất lượng giảng dạy, đào tạo nghề.
Dạy nghề có những nét khác biệt so với các cấp học khác trong nền giáo dục quốc dân, đó là ngành nghề đào tạo rất đa dạng, học viên vào học nghề có rất nhiều cấp trình độ văn hóa khác nhau. Cấp trình độ đào tạo nghề ở các cơ sở đào tạo nghề cũng rất khác nhau (bán lành nghề, lành nghề, bồi dưỡng nâng bậc thợ). Sự khác biệt đó làm cho đội ngũ giáo viên dạy nghề cũng rất đa dạng với nhiều cấp trình độ khác nhau.
Năng lực của giáo viên dạy nghề tốt thì mới có thể dạy các học viên được tốt bởi vì các học viên nắm được lý thuyết, bài giảng được học viên tiếp thu nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào năng lực giáo viên dạy nghề.
3. Nhận thức của xã hội về đào tạo nghề.
Nhận thức của xã hội về đào tạo nghề tác động mạnh đến công tác đào tạo nghề, ảnh hưởng rõ rệt nhất của nó là tới lượng học viên đầu vào cho các cơ sở đào tạo nghề. Nếu mọi người trong xã hội đánh giá được đúng đắn hơn tầm quan trọng của việc học nghề thì trước hết lượng lao động tham gia đào tạo nghề sẽ chiếm một tỷ lệ lớn hơn so với toàn bộ số lao động trên thị trường và sẽ có cơ cấu trẻ hơn, đa dạng hơn. Hơn nữa, nếu xã hội nhận thức được rằng giỏi nghề là một phẩm chất quý giá của người lao động, là cơ sở vững chắc để có việc làm và thu nhập ổn định thì công tác đào tạo nghề sẽ nhận thêm nhiều nguồn lực hỗ trợ cần thiết của xã hội để phát triển mạnh hơn.
Thực tế công tác đào tạo nghề hiện nay vẫn chưa được xã hội nhận thức đầy đủ và đúng đắn. Việc làm chuyển biến nhận thức của từng gia đình và toàn bộ xã hội sẽ có ý nghĩa quan trọng trong dạy nghề và học nghề. Không ít gia đình học sinh coi việc vào đại học như là con đường duy nhất để tiến thân, kiếm được việc làm nhàn hạ. Nhiều thanh niên, nhất là thanh niên nông thôn đã cố công đèn sách để thi vào đại học, thậm chí thi lại nhiều lần nhằm thoát ly quê hương nghèo khổ. Một người thợ bậc cao về làng không một ai biết tới nhưng một “cậu cử” mới ra trường vẫn được coi là danh giá, nên người. Trong con mắt của nhiều người, một người thợ bậc cao ở xí nghiệp vẫn không “oai” bằng người lao động ở cơ quan Nhà nước. Hơn nữa, một cán bộ Nhà nước tốt nghiệp đại học rất có thể được học lên đến Thạc sỹ hoặc Tiến sỹ nhưng người thợ bậc ba, bậc bốn vẫn khó tìm cơ hội để học lên hoặc nâng cao tay nghề. Điều này khiến nhiều thanh niên bằng mọi cách để thi vào đại học, né tránh đi học nghề, coi việc vào trường nghề là vạn bất đắc dĩ, “chuột chạy cùng sào”.
4. Các chính sách của Nhà nước liên quan đến đào tạo nghề.
Hệ thống văn bản, pháp luật, chính sách của Nhà nước tạo hành lang pháp lý, môi trường thuận lợi, khuyến khích đào tạo, phát triển nghề. Cụ thể ở đây là các chính sách đối với học viên học nghề, các chế độ chính sách ưu đãi các cơ sở đào tạo nghề, các chính sách về sử dụng học viên sau đào tạo.
Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy nhưng các chính sách đào tạo nghề còn rất nhiều hạn chế như:
Phần lớn các chính sách, chế độ mang tính giải pháp, tình huống.
Một số chính sách đã ban hành đến nay có những điểm không còn phù hợp hoặc thiếu những văn bản hướng dẫn cụ thể.
III. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ ĐÀO TẠO NGHỀ.
Trong lĩnh vực đào tạo nghề, với đặc trưng sản phẩm là “con người lao động” có thể hiểu là kết quả (đầu ra) của quá trình đào tạo và được thể hiện cụ thể ở các phẩm chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu đào tạo của từng ngành đào tạo trong hệ thống đào tạo. Với yêu cầu đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động, quan niệm về chất lượng đào tạo nghề không chỉ dừng lại ở kết quả của quá trình đào tạo trong nhà trường với những điều kiện đảm bảo nhất định như cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên mà còn phải tính đến mức độ phù hợp và thích ứng của người tốt nghiệp với thị trường lao động như tỉ lệ có việc làm sau khi tốt nghiệp, năng lực hành nghề tại các vị trí làm việc cụ thể ở các doanh nghiệp, cơ quan, các tổ chức sản xuất - dịch vụ, khả năng phát triển nghề nghiệp Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng chất lượng đào tạo nghề trước hết phải là kết quả của quá trình đào tạo và được thể hiện trong hoạt động nghề nghiệp của người tốt nghiệp. Quá trình thích ứng với thị trường lao động không chỉ phụ thuộc vào chất lượng đào tạo mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác của thị trường như quan hệ cung - cầu, giá cả sức lao động, chính sách sử dụng bố trí công việc của Nhà nước và người sử dụng lao động Do đó khả năng thích ứng còn phản ánh cả về hiệu quả đào tạo nghề ngoài xã hội và thị trường lao động.
Chất lượng đào tạo nghề có thể đánh giá trực tiếp qua sản phẩm đào tạo, qua chất lượng học sinh tốt nghiệp, tuy nhiên cũng có thể đánh giá gián tiếp thông qua các điều kiện để đảm bảo chất lượng.
Đánh giá chất lượng đào tạo qua chất lượng học sinh tốt nghiệp nhiều khi mang tính chủ quan của người dạy. Mặt khác không thể nói một nhà trường đào tạo có chất lượng trong khi nhà trường không có những điều kiện tối thiểu để đảm bảo chất lượng đào tạo và chương trình đào tạo của nhà trường không phù hợp với yêu cầu của sản xuất và của người học. Do đó khi đánh giá chất lượng đào tạo cần phải kết hợp cả hai cách đánh giá.
Hiện nay để đánh giá chất lượng đào tạo nghề người ta thường căn cứ chủ yếu vào các chỉ tiêu sau:
- Tỉ lệ học sinh khá giỏi so với tổng số.
- Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp so với tổng số.
- Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp ra trường có việc làm so với tổng số học sinh tốt nghiệp.
- Mức độ hài lòng của cơ sở sử dụng đối với học sinh tốt nghiệp làm việc tại cơ sở.
Trong bốn tiêu chí trên thì chỉ tiêu thứ tư “mức độ hài lòng của cơ sở sử dụng” phản ánh tổng hợp và chính xác nhất chất lượng đào tạo vì mục đích đào tạo là để sử dụng. Theo chỉ tiêu đó các cơ sở sử dụng thường hài lòng về chất lượng đào tạo của trường dạy nghề hơn là các cơ sở đào tạo nghề khác.
IV. KINH NGHIỆM ĐÀO TẠO NGHỀ Ở MỘT SỐ NƯỚC.
1. Kinh nghiệm của Nhật Bản.
Nhật Bản coi nguồn nhân lực là yếu tố quyết đị