Hiện nay một trong những nguyên nhân gây chậm trến tiến độ, tăng chi phí trong
quá trình đầu tư xây dựng là công tác bồi thường giải phóng mặt bằng. Đây là công tác
phức tập, liên quan đến nhiều vấn đề. Đặc biệt trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhu cầu về
đầu tư xây dựng cao, những dự án liên quan đến bồi thường giải phóng mặt bằng nhiều
do đó làm thê nào để nâng cao công tác này là một vấn đề cần giải quyết.
Đề tài “Nâng cao công tác quản lý trong giai đoạn bồi thường giải phóng mặt bằng
của các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai “ ra đời nhằm hoàn thiện hơn nữa
các quy trình, trình tự cũng như các vấn đề liên quan đến bồi thường giải phóng mặt
bằng để việc thực hiện các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai được hoàn thiện
đúng yêu cầu được giao.
66 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 3787 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao công tác quản lý trong giai đoạn bồi thường giải phóng mặt bằng của các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ttk1204@gmail.com
Tài liệu tham khảo
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hiện nay một trong những nguyên nhân gây chậm trến tiến độ, tăng chi phí trong
quá trình đầu tư xây dựng là công tác bồi thường giải phóng mặt bằng. Đây là công tác
phức tập, liên quan đến nhiều vấn đề. Đặc biệt trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhu cầu về
đầu tư xây dựng cao, những dự án liên quan đến bồi thường giải phóng mặt bằng nhiều
do đó làm thê nào để nâng cao công tác này là một vấn đề cần giải quyết.
Đề tài “Nâng cao công tác quản lý trong giai đoạn bồi thường giải phóng mặt bằng
của các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai “ ra đời nhằm hoàn thiện hơn nữa
các quy trình, trình tự cũng như các vấn đề liên quan đến bồi thường giải phóng mặt
bằng để việc thực hiện các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai được hoàn thiện
đúng yêu cầu được giao.
2. Đối tượng nghiên cứu
Dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai .
3. Phạm vi nghiên cứu
Ông tác bồi thường giải phóng mặt bằng
4. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nâng cao công tác quản lý trong giai đoạn bồi thường giải phóng mặt bằng của các
dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết và luật quy định
6. Kết cấu của luận văn:
NỘI DUNG ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
Nội dung thực hiện và tài liệu thực hiện luận văn:
Phần Mở đầu: - Tình hình quản lý trong giai đoạn bồi thường giải phóng mặt
bằng của các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
- Sự cần thiết tiến hành đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận về bồi thường giải phóng mặt bằng
1.1 Công tác đền bù giải phóng mặt bằng và các khái niệm liên quan
1.1 .1 Công tác đền bù giải phóng mặt bằng
- Giải phóng mặt bằng: Là quá trình thực hiện các công việc liên quan đến việc di
dời nhà cửa, cây cối, các công trình xây dựng và một bộ phận dân cư trên một phần đất
nhất định để trả lại mặt bằng thực hiện các quy hoạch cho việc cải tạo, mở rộng hoặc
xây dựng một công trình mới.
Quá trình giải phóng mặt bằng được tính từ khi bắt đầu hình thành hội đồng giải
phóng mặt bằng đến khi giải phóng xong và giao cho chủ đầu tư mới. Đây là một quá
trình đa dạng và phức tạp thể hiện sự khác nhau giữa các dự án và liên quan trực tiếp
đến các bên tham gia và của toàn xã hội.
- Ý Nghĩa: Trong điều kiện nước ta hiện nay, “Giải phóng mặt bằng” là một trong
những công việc quan trọng phải làm trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Sự cần thiết triển khai xây dựng nhiều công trình cơ sở hạ tầng, nhiều khu kinh
tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, theo đó các cơ sở văn hoá giáo dục, thể dục thể
thao cũng đuợc phát triển, tốc độ đô thị hoá cũng diễn ra nhanh chóng.
Công tác giải phóng mặt bằng mang tính quyết định tiến độ của các dự án, là khâu
đầu tiên thực hiện dự án. Có thể nói: “Giải phóng mặt bằng nhanh là một nửa dự án”.
Việc làm này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của chủ đầu tư,
mà còn ảnh hưởng đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người bị thu hồi đất
- Vai trò của công tác giải phóng mặt bằng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước :
Đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng
Ở mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế xã hội có một sự phát triển thích ứng của
hạ tầng kinh tế xã hội. Với tư cách là phương tiện vật chất kỹ thuật, hạ tầng kinh tế xã
hội lại trở thành lực lượng sản xuất quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội
mà trong đó giải phóng mặt bằng là điều kiện tiên quyết để dự án có được triển khai hay
không.
- Về mặt tiến độ hoàn thành của dự án
+ Tiến độ thực hiện các dự án phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau như: Tài
chính, lao động, công nghệ, điều kiện tự nhiên, tập quán của người dân trong diện bị
giải toả Nhưng nhìn chung, nó phụ thuộc nhiều vào thời gian tiến hành giải phóng
mặt bằng.
+ Giải phóng mặt bằng thực hiện đúng tiến độ đề ra sẽ tiết kiệm được thời gian và
việc thực hiện dự án có hiệu quả. Ngược lại giải phóng mặt bằng kéo dài gây ảnh hưởng
đến tiến độ thi công các công trình cũng như chi phí cho dự án, có khi gây ra thiệt hại
không nhỏ trong đầu tư xây dựng. Chẳng hạn một dự án dự kiến hoàn thành đến hết mùa
khô nhưng do giải phóng mặt bằng chậm, kéo dài nên việc xây dựng phải tiến hành vào
mùa mưa gây khó khăn cho việc thi công cũng như tập trung vốn, lao động, công nghệ
cho dự án này và ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án khác.
- Về mặt kinh tế của dự án: Giải phóng mặt bằng thực hiện tốt giảm tối đa chi phí
cho việc giải toả đền bù, có điều kiện tập trung vốn đầu tư cho các công trình khác. giải
phóng mặt bằng kéo dài dẫn đến chi phí bồi thường lớn, không kịp hoàn thành tiến độ
dự án dẫn đến sự quay vòng vốn chậm gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Đặc biệt, các
nhà đầu tư trong nước có nguồn vốn hạn hẹp thì việc quay vòng vốn là rất cần thiết để
đảm bảo tận dụng cơ hội đấu thầu của các công trình khác.
Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Nếu công tác giải phóng mặt bằng không được thực hiện tốt sẽ xảy ra hiện tượng
“treo” công trình làm cho chất lượng công trình bị giảm, các mục tiêu ban đầu không
thực hiện được, từ đó gây lãng phí rất lớn cho ngân sách Nhà nước. Mặt khác, khi giải
quyết không thoả đáng quyền, lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi sẽ dễ dàng
nỗ ra những khiếu kiện, đặc biệt là những khiếu kiện tập thể, làm cho tình hình chính trị
- xã hội mất ổn định
- Sự cần thiết của việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
Việc hoàn thiện chính sách phát luật quản lý đất đai nói chung, trong đó có chính
sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu rõ Đảng và
Nhà nước chủ trương rà soát lại toàn bộ hệ thống chính sách pháp luật về đất đai lấy
mốc từ thời điểm năm 1987. Tháng 09 năm 2002 Trung ương Đảng giao cho Ban chỉ
đạo về "Đổi mới chính sách pháp luật đất đai" có kế hoạch chuẩn bị đề án về chính
sách đất đai và chuẩn bị đề cương báo cáo tổng kết chính sách đất đai, kiến nghị về
chủ trương sửa đổi Luật Đất đai từ Trung ương đến các địa phương. Trên cơ sở đó,
trong Nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" được thông qua tại Hội nghị lần thứ 7
(phần 2) Ban chấp hành Trung ương Đảng, đã khẳng định đường lối, chủ trương đổi
mới chính sách và pháp luật đất đai của Đảng và Nhà nước đã từng bước đi vào cuộc
sống, thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần ổn định chính trị xã hội. Đồng thời chỉ rõ
những hạn chế về hiệu quả sử dụng đất đai, những yếu kém trong công tác quản lý Nhà
nước về đất đai, nguyên nhân của những hạn chế này là do một số chủ trương, chính
sách quan trọng của Đảng còn chưa được thể chế hoá hoặc văn bản pháp luật thể chế
ban hành nhiều, nhưng còn thiếu đồng bộ.
Đến năm 2003 Luật đất đai mới đã được Quốc hội thông qua thay thế Luật Đất đai
1993, trong Luật đã quy định đầy đủ hơn các nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế; việc thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích phát triển kinh tế của đất nước và quản lý quỹ đất thu hồi; chính sách bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư cho người có đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích quốc phòng,
an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế và những trường hợp
thu hồi đất mà không bồi thường hoặc chỉ xử lý tiền sử dụng đất còn lại và giá trị tài
sản trên đất.v.v Để hướng dẫn cụ thể quy định của Luật đất đai năm 2003 và chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 hướng
dẫn thi hành Luật Đất đai; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Tiếp tục hoàn thiện thể
chế chính sách phục vụ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường
sự chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển đất
nước, trong Báo cáo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Kỳ họp thứ 10
Quốc hội khoá XI Ngày 17 tháng 10 năm 2006 tại phần nhiệm vụ và giải pháp để tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, đã nêu rõ chủ
trương chỉ đạo của Chính phủ: “Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho lao động
nông thôn; tiếp tục hỗ trợ thích hợp cho người dân ở những nơi Nhà nước đã thu hồi
đất để sớm ổn định cuộc sống; kiểm tra chặt chẽ các dự án tái định cư bảo đảm cuộc
sống của dân khi quyết định thu hồi đất”. Triển khai thực hiện chủ trương của Đảng
và chỉ đạo của Chính phủ về đổi mới hoàn thiện chính sách bồi thường, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006 ; Nghị định số
84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất
đai;Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 về quy hoạch sử dụng đất, giá đất,
thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ tái định cư ; tại các nghị định này đã sửa đổi bổ sung một
số quy định về chính sách bồi thường, quy định bổ sung các trường hợp Nhà nước thu
hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng và mục đích phát triển kinh tế; sửa đổi quy định bồi thường đất, giá đất tính bồi
thường, cơ chế hỗ trợ cho người bị thu hồi đất và cải cách trình tự thực hiện thu hồi
đất, thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ngày càng phù hợp với yếu
cầu phát triển khinh tế - xã hội của đất nước.
1.1.2 Các khái niệm liên quan
- Thu hồi đất: Là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng
đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý
theo quy định (trích theo khoản 5 điều 4 luật đất đai 2003).
- Bồi thường: Là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích
đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất (trích theo khoản 6 điều 4 luật đất đai 2003).
Bồi thường là đền bù những tổn hại đã gây ra. Đền bù là trả lại tương xứng với giá
trị hoặc công lao. Như vậy, bồi thường là trả lại tương xứng với giá trị hoặc công lao
cho một chủ thể bị thiệt hại vì hành vi của một chủ thể khác.
- Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất : Là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất
thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm
mới (trích theo khoản7 điều 4 luật đất đai 2003).
- Tái định cư:
TĐC là việc di chuyển đến một nơi khác với nơi ở trước đây để sinh sống và làm ăn.
TĐC bắt buộc đó là sự di chuyển không thể tránh khỏi khi Nhà nước thu hồi hoặc trưng
thu đất đai để thực hiện các dự án phát triển.
TĐC được hiểu là một quá trình từ bồi thường thiệt hại về đất, tài sản; di chuyển đến
nơi ở mới và các hoạt động hỗ trợ để xây dựng lại cuộc sống, thu nhập, cơ sở vật chất,
tinh thần tại đó. Như vậy, TĐC là hoạt động nhằm giảm nhẹ các tác động xấu về kinh tế
- xã hội đối với một bộ phận dân cư đã gánh chịu vì sự phát triển chung.
Hiện nay ở nước ta, khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì người sử
dụng đất được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức sau:
- Bồi thường bằng nhà ở.
- Bồi thường bằng giao đất ở mới.
- Bồi thường bằng tiền để người dân tự lo chỗ ở
TĐC là một bộ phận không thể tách rời và giữ vị trí rất quan trọng trong chính
sách GPMB. Các dự án TĐC cũng được coi là các dự án phát triển và phải được thực
hiện như các dự án phát triển khác.
1.1.3 Cơ sở lý luận bồi thường
Khi các công trình được xây dựng nhằm phục vụ cho mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia được triển khai thì Nhà nước cần phải có mặt
bằng để thực hiện dự án. Thế nhưng đất đai thuộc sở hữu toàn dân, với tư cách là người
quản lý, nhằm đảm bảo được lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhân dân, khi đó Nhà
nước sẽ ra quyết định thu hồi quyền sử dụng đất của người dân hoặc đất được Nhà nước
giao quản lý.
Theo điều 4, Luật đất đai năm 2003 “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định
hành chính để thu hồi quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý”.
Việc xây dựng những khu công nghiệp cho mục tiêu phát triển kinh tế, những con
đường quốc gia để phục vụ lợi ích chung là rất cần thiết nhưng không vì thế mà phải hy
sinh quyền lợi của những cá nhân, những nhóm người. Do đó, khi quyền sử dụng đất
của người dân bị thu hồi thì Nhà nước sẽ bồi thường thiệt hại.
Vậy, “ Bồi thuờng khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền
sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất ”
“Bồi thường” là sự đền trả lại tất cả những thiệt hại mà chủ thể gây ra một cách
tương xứng, trong quy hoạch xây dựng thiệt hại gây ra có thể là thiệt hại vật chất và thiệt
hại phi vật chất. Trong giải phóng mặt bằng, cùng với chính sách hỗ trợ và tái định cư,
chính sách bồi thường là một phần quan trọng trong chính sách đền bù thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất. Chính sách này nhằm giúp cho người bị thu hồi đất có thể tái lập, ổn
định cuộc sống mới do những thiệt hại vật chất hoặc thiệt hại phi vật chất do việc thu
hồi đất gây ra, mặt khác giúp họ giải quyết được những khó khăn khi phải thay đổi nơi
ở mới.
Bản chất của việc bồi thường
Mục tiêu phát triển kinh tế và xây dựng đất nước của Đảng và Nhà nước ta đó là:
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong nhiều chiến lược
phát triển của đất nước có chiến lược phát triển nhà ở nhằm tạo điều kiện cho nhân dân
có chỗ ở rộng rãi hơn, tiện nghi hơn qua mỗi thời kỳ phát triển.
Ăn và ở là hai nhu cầu tối thiểu của con người, trong đó nhu cầu về nhà ở có tầm
quan trọng trong việc ổn đời sống của mỗi người dân. Câu nói tuy giản dị từ bao đời nay
của ông cha ta “Có an cư, mới lạc nghiệp” nhưng trong hoàn cảnh nào cũng đúng vì sự
du canh, du cư của con người khó làm nên sự nghiệp. Do đó trong quá trình thu hồi đất
để giải phóng mặt bằng, người dân phải di chuyển chỗ ở và kéo theo đó là những khó
khăn mà họ sẽ, gặp phải trong cuộc sống hiện tại cũng như tương lai. không có chỗ ở ổn
định thì con người sẽ không có điều kiện tốt nhất cho việc học tập, lao động, nghiên cứu
khoa hoc
Bài học của một số nước phát triển cho ta cách nhìn mới, đó là bên cạnh những
công sở nguy nga tráng lệ, những cao ốc trọc trời là những khu nhà “ổ chuột” của dân
lao động – công bằng và dân chủ không thể chỉ thông qua việc hô hào mà thực tế lại
không thực hiện.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chúng
ta không thể chỉ có những đô thị đẹp, hiện đại, những khu chế xuất khổng lồ, những
công trình công cộng khang trang mà kèm theo đó chỗ ở của người dân phải được nâng
cấp tiện nghi hơn, rộng rãi hơn Chính vì vậy phải tính một cách toàn diện, không thể
có một hiện tượng một công trình mới ra đời lại kéo theo những người dân không có
chỗ ở hoặc chỗ ở kém hơn nơi ở cũ.
Nếu không nhìn rõ bản chất vấn đề, mỗi năm chúng ta có hàng ngàn dự án cần giải
phóng mặt bằng, mỗi dự án chỉ kéo theo một gia đình không có chỗ ở thì đã có hàng
ngàn gia đình thiếu chỗ ở hoặc chỗ ở tạm bợ. Như vậy là sự phát triển sẽ thiên lệch, lợi
ích của quốc gia, lợi công cộng không hài hoà với lợi ích cá nhân, gia đình. Từ đó mục
tiêu lớn của quốc gia sẽ không đạt được.
Từ những nhận thức trên có thể giúp chúng ta hiểu được bản chất quan trọng của
vấn đề, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng nói chung và chính sách bồi thường giải
phóng mặt bằng nói riêng cơ bản phù hợp với nguyện vọng chính đáng của người dân,
nhưng để chính sách đi vào cuộc sống cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các nghành, các
cấp có liên quan. Đồng thời cần có sự chỉ đạo kịp thời, sự quan tâm đúng mức của những
người đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong việc xảy ra những vướng mắc, khó khăn
nhằm có những giải pháp phù hợp cho từng khu vực, từng dự án và cả từng hộ dân trong
công tác bồi thường giải phóng mặt bằng.
1.1.4 Cơ sở pháp lý về bồi thường giải phóng mặt bằng
Sau một thời gian dài thực hiện Luật đất đai 1993 đã thấy những thiếu sót, những
khó khăn về phạm vi bồi thường, nên đến Luật đất đai 2003 và cùng với đó Chính phủ
ban hành Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 đã khắc phục được những
thiếu sót, khó khăn trên.
Hiện nay cùng với Nghị định 197/2004/NĐ-CP, Nghị định 181/2004/NĐ-CP, Nghị
định 84/2007/NĐ-CP là sự ra đời của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009
của Chính phủ, trong đó công tác bồi thường giải phóng mặt bằng đã có nhiều thay đổi
khi UBND cấp tỉnh có dự án được thoả thuận với người dân về mức bồi thường. Qua đó
kéo gần thêm khoảng cách giữa chủ đầu tư với người có đất bị thu hồi, hạn chế những
“dự án treo” trên giấy mà nguyên nhân chủ yếu là việc bồi thường giải phóng mặt bằng
gặp khó khăn.
1.2 Đặc điểm của công tác bồi thường giải phóng mặt bằng
Giải phóng mặt bằng là quá trình đa dạng và phức tạp nó thể hiện khác nhau đối
với mỗi dự án, nó liên qua đến lợi ích bên tham gia và lợi ích toàn xã hội.
- Sự cấn thiết của công tác đền bù giải phóng mặt bằng:
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, do đó chỉ có Nhà
nước mới có quyền định đoạt đối với tài sản quốc gia này. Nhà nước có thể giao cho các
đối tượng sử dụng theo quy định đã ghi trong luật đất đai nhưng khi cần nhà nước sẽ thu
hồi lại để phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nhu cầu sử dụng đất để
xây dựng các công trình cở sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình kiến trúc khác luôn
thay đổi. nhà nước giao đất cho các chủ sử dụng với một mục đích nhất định phù hợp
với quy hoạch. Tuy nhiên khi quy hoạch thay đổi cũng đồng nghĩa với việc thay đổi mục
đích sử dụng. Nhà nước phải thu hồi lại đất để phục vụ cho mục đích sử dụng mới. Ví
dụ như các dự án sử dụng đất với mục đích xây dựng một tuyến đường giao thông trong
một địa phương nào đó hoặc đường quốc lộ lớn, xây dựng các trung tâm kinh tế, khu
vui chơi giải trí, sân vận động quốc gia, nhà thi đấu, ... nhằm mục đích phát triển kinh
tế và phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Để thực hiện các dự án này cần có đất.
Vì Nhà nước đã giao cho các đối tượng sử dụng, vì vậy đất đai thực hiện dự án Nhà
nước phải thu hồi đất của người sử dụng. Sau khi thu hồi đất, Nhà nước sẽ giao lại cho
chủ dự án sử dụng đất mới mà có dự án đã được nhà nước phê duyệt.
Khi được nhà nước giao đất thì các đối tượng sử dụng có thể sử dụng vào nhiều
mục đích theo đăng ký nhằm phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống. Họ có thể xây dựng
nhà ở, các công trình kiến trúc, công trình phục vụ cho đời sống, những tài sản gắn với
đất. Các tài sản đó thuộc sở hữu của người sử dụng.
Do đó, khi nhà nước thu hồi đất người sử dụng không chỉ mất đi đất đai mà còn
mất những tài sản được xây dựng trên mảnh đất đó.
- Họ sẽ mất đi tư liệu sản xuất là đất đai, do đó mất đi nghề nghiệp và địa bàn sản
xuất. Trên mảnh đất này trước đó họ có thể trồng trọt chăn nuôi và đất đai trong trường
hợp này đóng vai trò là một tư liệu sản xuất, hoặc họ có thể xây dựng các công trình
phục vụ cho sản xuất mà họ sở hữu.
- Để sản xuất họ cần phải đt các yếu tố phục vụ sản xuất vào đất như hệ thống tưới
tiêu, phân bón làm tăng độ phì của đất và các công trình phục vụ sản xuất khác. Do đó,
Nhà nước phải đền bù cho