Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu của các quốc gia trên thế giới, đó là quy luật tất yếu. Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, đó không chỉ là tin vui đối với nền kinh tế mà của tất cả các ngành nghề nói riêng. Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn vươn mình đứng dậy như Thánh Gióng, nhưng đồng thời cũng đối mặt với những khó khăn thách thức không nhỏ - sự cạnh tranh khốc liệt trên thương trường, đặc thù của mọi nền kinh tế. Là một tế bào của nền kinh tế Việt Nam, qua những giai đoạn phát triển thăng trầm, ngành dệt may cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Năm 2007 chứng kiến sự bứt phá mạnh mẽ của ngành dệt may trên thị trường thế giới cũng như khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế Việt Nam.
Là một sinh viên chuyên ngành kinh tế quốc tế, trước những thay đổi về chất và lượng của nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO, lại may mắn được rèn luyện và tìm hiểu trong môi trường năng động của ngành dệt may, trong một công ty có bề dày truyền thống và kinh nghiệm như tổng công ty dệt may Hà Nội, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội” để tìm tòi và phát triển. Bài viết của em được trình bày theo ba chương như sau
Chương 1: Khái quát chung về ngành dệt may và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO
Chương 2 : Thực trạng năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội.
Chương 3 : Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội, chú ý ngành dệt.
96 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2679 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu của các quốc gia trên thế giới, đó là quy luật tất yếu. Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, đó không chỉ là tin vui đối với nền kinh tế mà của tất cả các ngành nghề nói riêng. Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn vươn mình đứng dậy như Thánh Gióng, nhưng đồng thời cũng đối mặt với những khó khăn thách thức không nhỏ - sự cạnh tranh khốc liệt trên thương trường, đặc thù của mọi nền kinh tế. Là một tế bào của nền kinh tế Việt Nam, qua những giai đoạn phát triển thăng trầm, ngành dệt may cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Năm 2007 chứng kiến sự bứt phá mạnh mẽ của ngành dệt may trên thị trường thế giới cũng như khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế Việt Nam.
Là một sinh viên chuyên ngành kinh tế quốc tế, trước những thay đổi về chất và lượng của nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO, lại may mắn được rèn luyện và tìm hiểu trong môi trường năng động của ngành dệt may, trong một công ty có bề dày truyền thống và kinh nghiệm như tổng công ty dệt may Hà Nội, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội” để tìm tòi và phát triển. Bài viết của em được trình bày theo ba chương như sau
Chương 1: Khái quát chung về ngành dệt may và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO
Chương 2 : Thực trạng năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội.
Chương 3 : Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty dệt may Hà Nội, chú ý ngành dệt.
Trong suốt quá trình tìm tòi nghiên cứu em đã nhận được sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Như Bình và các thầy cô giáo trong khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên bài viết của em không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót do năng lực có hạn của bản thân. Em mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy cô, đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Như Bình để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1 : Khái quát chung về ngành dệt may và năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
1.1. Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam
1.1.1. Nguồn gốc, lịch sử hình thành
1.1.1.1. Lịch sử ngành dệt may
Dệt may là một trong những hoạt động có từ xưa nhất của con người. Sau thời kỳ ăn lông ở lỗ, lấy da thú che thân, từ khi biết canh tác, loài người đã bắt chước thiên nhiên, đan lát các thứ cỏ cây làm thành nguyên liệu.
Theo các nhà khảo cổ thì sợi lanh là nguyên liệu dệt may đầu tiên của con người. Sau đó sợi len xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà và sợi bông ở ven sông Indus. Trong thời kỳ cổ đại, may dệt cũng tuỳ thuộc vào thổ nhưỡng và sinh hoạt kinh tế: các dân tộc sống về chăn nuôi dùng len (Lưỡng Hà, Trung Đông và Trung Á), vải lanh phổ biến tại Ai Cập và miền Trung Mỹ, vải bông tại Ấn Độ và lụa (tơ tằm) tại Trung Quốc. Các dân tộc Inca, Maya, Tolteca, v.v. tại châu Mỹ thì dùng các sợi chuối và sợi thùa. Theo Kinh Thi của Khổng Tử, tơ tằm được tình cờ phát hiện vào năm 2640 trước Công nguyên. Sau khi vua Phục Hy, vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc, khuyến khích dân chúng trồng dâu nuôi tằm, tơ lụa trở thành một ngành phồn thịnh, một trong những hàng hoá đầu tiên trao đổi giữa Đông và Tây. Trong nhiều thế kỷ, Trung Quốc là nước duy nhất sản xuất và xuất khẩu lụa và tơ tằm. Con Đường Tơ Lụa, còn được truyền tụng đến ngày nay, không chỉ là địa bàn của các nhà buôn mà còn mở đường cho các luồng giao lưu văn hoá, nghệ thuật, tôn giáo, và cả các cuộc viễn chinh binh biến.
Tuy các kỹ thuật may dệt đã mau chóng đạt mức độ tinh vi, có khi thành cả nghệ thuật, nhưng trong suốt 5 ngàn năm, con người vẫn chỉ dùng các nguyên liệu tự nhiên, lấy từ cây cỏ như các sợi bông, sợi đay, sợi gai dầu, sợi lanh, hay từ thực vật như da, sợi len, tơ tằm, v.v. Vì thế sản xuất bị giới hạn, vải vóc vẫn là sản phẩm quí, những y phục gấm vóc dành cho giai cấp quí tộc, thượng lưu, đại đa số dân chúng chỉ mặc vải thô, quanh quẩn với một vài màu mè kiểu cọ. Mãi đến giữa thế kỷ 18, với cuộc cách mạng kỹ nghệ bên Anh và sự ra đời của các máy dệt cơ khí hoá, chạy bằng hơi nước, ngành dệt mới thật sự ra khỏi sản xuất thủ công để trở thành một kỹ nghệ.
Tuy nhiên, con người vẫn còn lệ thuộc vào thiên nhiên, và nhiều nhà khoa học ở Âu Châu tìm tòi cách làm ra một loại sợi nhân tạo có thể sản xuất hàng loạt, với giá rẻ. Phải đợi đến năm 1884, một người Pháp, bá tước Hilaire Bernigaud de Chardonnet mới phát minh một cách chế tạo tơ nhân tạo, sau 6 năm nghiên cứu. Ông Chardonnet được coi như cha đẻ của kỹ nghệ sợi hoá học là chữ gọi chung cho các sợi nhân tạo và sợi tổng hợp. Mục đích của ông khi tìm cách làm tơ nhân tạo là để bình dân hoá vải vóc, để bất cứ ai cũng có thể có được những bộ quần áo lụa là cho tới lúc ấy chỉ dành cho một thiểu số. Ông đã thành công hơn dự kiến vì kỹ nghệ phát sinh từ các sáng chế của ông đã dẫn đến cả một cuộc cách mạng trong may mặc, biến thời trang thành một hiện tượng quần chúng trong mọi nước. Ngành dệt may từ đó cũng phát triển ngày càng nhanh, cùng với đà tiến triển của kinh tế và thương mại. Từ 1889 đến 1939, phải sau 50 năm sản lượng sợi hoá học trên thế giới mới đạt mức 1 triệu tấn một năm, nhưng chỉ 12 năm sau đã tăng gấp đôi, và cứ thế tăng vọt.
Năm 1900, trên thế giới có 1,6 tỷ người, tiêu thụ 3,8 triệu tấn sợi, hầu như toàn bộ là các sợi tự nhiên - bông (81%) và len (19%)-, số sợi hoá học dưới 1000 tấn. Năm 1975, thế giới tiêu thụ 26 triệu tấn sợi, trong đó 50% bông, 6% len và 44% sợi hoá học. Như thế, chỉ trong 3 phần tư thế kỷ, số lượng tiêu thụ đã nhân lên 4,3 lần cho sợi bông, 2,2 lần cho sợi len, và 11 000 lần cho sợi hoá học. Mức tăng trưởng phi thường này tuy thế khựng lại sau năm 1973, vì cuộc khủng hoảng về dầu lửa và giai đoạn kinh tế suy thoái sau đó. Ngoài ra, vì dầu hoả là nguyên liệu chính của sợi hoá học, khuynh hướng thay thế các sợi tự nhiên bằng sợi hoá học cũng chậm lại và ngày nay sợi tự nhiên, chủ yếu là bông, vẫn tồn tại trên thị trường, và sợi hóa học chỉ chiếm đa số với khoảng 60% .
Sản phẩm của ngành dệt may không chỉ là quần áo, vải vóc và các vật dụng quen thuộc như khăn bàn, khăn tắm, chăn mền, nệm, rèm, thảm, đệm ghế, ô dù, mũ nón v.v. mà còn cần thiết cho hầu hết các ngành nghề và sinh hoạt: lều, buồm, lưới cá, cần câu, các loại dây nhợ, dây thừng, dây chão, các thiết bị bên trong xe hơi, xe lửa, máy bay, tàu bè (một chiếc xe hơi trung bình dùng đến 17 kí sợi vải), vòng đai cua-roa, vỏ săm lốp, ống dẫn, bao bì, và nói chung mọi vật liệu dùng để đóng gói, bao bọc, để lót, để lọc, để cách nhiệt, cách âm, cách điện, cách thuỷ, và cả những dụng cụ y khoa như chỉ khâu và bông băng.
Có thể hiểu tại sao ngành dệt may đã đi liền với sự phát triển của các nước công nghiệp, cùng với sắt thép là hai ngành vừa được ưu tiên thừa hưởng những phát minh kỹ thuật vừa là động cơ chuyển biến cả nền kinh tế từ thủ công sang công nghiệp trong thời kỳ cách mạng kỹ nghệ. Điều này cũng giải thích tại sao các nước công nghiệp vẫn quyết tâm bảo vệ ngành dệt may nội địa trước sự cạnh tranh của các nước nghèo, từ thập niên 1970 trở đi, khi các nước này tập trung xây dựng ngành này thành trọng điểm của chiến lược phát triển. Và tại sao đó cũng là một trong những mối tranh chấp căng thẳng từ nhiều năm trong quan hệ thương mại giữa các nước giàu và nghèo.
1.1.1.2. Ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam đã có lịch sử hình thành và phát triển rất lâu đời. Tù hàng nghìn năm nay người Việt đã biết trồng dâu nuôi tằm, trồng bông, lanh, gai, đay, và các cây có xơ để kéo sợi, dệt vải làm nguyên liệu cho ngành may mặc phục vụ cho đời sống hàng ngày và trong tang lễ, hội hè, đình đám. Bằng chứng cho sự phát triển này là đến này vẫn còn tồn tại nhiều làng nghề truyền thống trên nhiều vùng đất nước như: lụa Vạn Phúc, khăn Phùng Xá, dệt làng Mẹo, thổ cẩm Mai Châu… Tuy vậy phải đến cuối thế kỷ XIX ngành dệt may mới manh nha hình thành và phát triển trong hình hài một ngành công nghiệp
Ngành dệt may Việt Nam có thể chia làm 2 giai đoạn
Giai đoạn từ thời Pháp thuộc đến năm 1975: viên gạch đầu tiên đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam là sự ra đợi của một vài xí nghiệp có quy mô sản xuất công nghiệp như công ty bông vải Bắc kỳ tiền thân của công ty dệt Nam Định ngày nay, xí nghiệp tơ tằm Delignon ở Nam Trung bộ do người Pháp đầu tư và một vài cơ sở dệt kim tư nhân rất nhỏ bé tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Sài Gòn - Chợ Lớn.. Tuy nhiên ngành dệt may Việt Nam lúc bấy giờ, dù phát triển rộng khắp ở các đô thị, thị trấn, vùng quê, nhưng hầu như vẫn sản xuất theo phương thức thủ công, ngành công nghiệp may sẵn chưa có vị trí đáng kể nào.
Đến năm 1954, hoà bình lập lại ở miền Bắc, chính phủ có chủ trương phát triển phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn nên đã sớm ban hành nhiều chính sách nhằm chấn hưng ngành công nghiệp non trẻ này. Đó là phục hồi các nhà may do Pháp để lại và khuyến khích các nhà máy sản xuất trở lại, thành lập các công ty gia công dệt may để khuyến khích, phát huy và thu mua các sản phẩm dệt may ở các làng nghề thủ công tham gia vào giải quyết vải tiêu dùng trong nhân dân và xuất khẩu. Đồng thời mở hàng loạt các xí nghiệp dệt công nghiệp mới của nhà nước với trang thiết bị nhập từ Trung Quốc và các nước Đông Âu như dệt Nam Định, tơ Nam Định, len Hải Phòng, dệ 8/3, dệt kim Đông Xuân… và các xí nghiệp địa phương như dệt kim Thăng Long, dệt khăn Minh Khai… cùng hàng loạt các xí nghiệp may mới ra đời thu hút rất nhiều lao động như May 10, May Thăng Long, May Chiến Thắng… nhiều xí nghiệp công tư hợ danh, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp dệt, may ở các thành phố, thị xã, thị trấn
Toàn ngành công nhiệp và tiểu thủ công nghiệp dệt may miền Bắc, thời kỳ 1945-1975 đã đáp ứng được nhu cầu về vải cho tiêu dùng, phục vụ đời sống xã hội với mức bình quân 5 mét vải/ người và hàng năm xuất khẩu hàng trăm triệu sản phẩm may mặc sang các nước Đông Âu dưới dạng vỏ chăn, áo gối, quần áo bảo hộ lao động, áo choàng y tế… theo hiệp định hàng đổi hàng được ký giữa chính phủ hai nước.
Giai đoạn từ năm 1975 đến nay : đất nước thống nhất, tiếp quản thêm nhiều xí nghiệp ở miền Nam, ngành dệt may mở rộng tầm quản lý với quy mô to lớn và cũng đa dạng hơn. Từ sản phẩm thuần chủng bông thiên nhiên, chúng ta đã sản xuất và xuất khẩu sản phẩm bông pha hỗn hợp, từ sản phẩm may cấp thấp đã dần vươn lên thành sản phẩm cao cấp hơn như sản phẩm sơ mi thời trang, jacket, quần bò, complet… Với chủ trương đưa ngành dệt may trở thành ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra xuất khẩu và phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân, vì thế nhà nước vừa khai thác, phát huy tiềm lực sẵn có, vừa không ngừng mở rộng phát triển vả chiều rộng lẫn bề sâu
1.1.2. Thực trạng về ngày dệt may hiện nay
Ngày nay, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra xuất khẩu và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu trong đời sống kinh tế xã hội.
Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt hàng tỷ USD, chỉ đứng sau ngành dầu khí về xuất khẩu, tăng trưởng hàng năm luôn trên 20%. Thậm chí năm 2007 dệt may đã vươn lên vị trí dẫn đầu trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu, vượt qua cả dầu thô, với kim ngạch đạt 7.75 tỷ USD, tăng 32.8% so với năm 2006, đồng thời lọt vào top 5 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới và theo dự báo, trong năm nay, Việt Nam sẽ vượt qua Ấn Độ và Mexico trở thành cường quốc xuất khẩu dệt may thứ 2 thế giới, sau Trung Quốc. Thành tựu này là kết quả nỗ lực, phấn đấu không mệt mỏi của ngành hàng. Đặc biệt, trong đó là những bước đi khôn ngoan khi mở rộng thị trường và vượt qua những rào cản của thị trường Mỹ. Theo dự báo của phòng thương mại Việt- Mỹ doanh thu năm 2007 của Việt Nam vào thị trường Mỹ chiếm đến 43% trong tổng kim ngạch nhập khẩu sản phẩm này tại Mỹ. Phải nói đây là một thắng lợi lớn về kinh tế trong giai đoạn phát triển của ngành dệt may VN, quan trọng hơn là trong những năm qua ngành dệt may VN đã giải quyết được hàng chục vạn lao động, góp phần cùng đất nước giải quyết tình trạng thất nghiệp, xoá đói giảm nghèo, ổn định chính trị và phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, ngành tiếp tục thu hút nhiều làn sóng đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, các doanh nghiệp dệt may có vốn đầu tư nước ngoài ước tính chiếm khoảng 25% tổng số các doanh nghiệp dệt may của cả nước. Dự kiến trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may tiếp tục tăng cao, theo dự đoán khoảng 9,6 tỷ USD nếu biết giữ vững các thị trường truyền thống như Mỹ- thị trường chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may, EU- thị trường chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu và Nhật Bản- chiếm 10%, đồng thời tìm kiếm thêm những thị trường mới.
Tuy đã đạt được những thành tựu đáng khen như vậy trong thời gian qua, ngành dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Những kết quả trên một phần là do ngành may, trong khi may phát triển mạnh và được coi là một trong năm nước có năng lực cạnh tranh thì ngành dệt lại đang bị tụt hậu 20 năm so với thế giới. Đạt được kim ngạch xuất khẩu lớn như vậy, nhưng hiệu quả xuất khẩu của ngành dệt may còn thấp do chưa chủ động được nguồn nguyên liệu mà vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài đến 80%, điều đó cho thấy phần nào năng lực cạnh tranh kém cỏi của các doanh nghiệp dệt Việt Nam. Trong khi đó, ngành dệt Việt Nam vẫn chủ yếu là phục vụ thị trường nội địa. Nhưng nếu tình hình này không sớm được cải thiện thì các doanh nghiệp dệt có khả năng mất chỗ đứng ngay trong thị trường nội địa trong tương lai gần. Bởi vì có thể so sánh trong khi một nhà máy dệt của Trung Quốc trung bình có khoảng 6.000 máy dệt thì các doanh nghiệp dệt Việt Nam chỉ có khoảng vài trăm máy, đa phần là cũ, lạc hậu. Theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam, khoảng cách về trình độ phát triển giữa ngành Dệt Việt Nam và các nước khá xa. Nếu xếp theo thang điểm 10, thì ngành Dệt Việt Nam chỉ đạt khoảng 3-3,5 điểm, chưa đạt mức trung bình của thế giới. Thiết bị lạc hậu dẫn đến chất lượng vải nội không ổn định, độ bền màu kém, khiến cho khách hàng đặt may không dám lựa chọn vải nội, buộc các doanh nghiệp may gia công lại phải nhập khẩu vải từ các công ty nước ngoài. Không chỉ may gia công, ngay cả các công ty may phục vụ tiêu dùng nội địa cũng không dám mạo hiểm thương hiệu của mình khi mua vải chất lượng kém để sản xuất những mặt hàng của mình. Điều đó làm ngành Dệt càng gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, những doanh nghiệp Dệt trong nước làm ăn được hầu hết đều là các doanh nghiệp tư nhân hoặc liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy việc quan tâm cũng như tìm một hướng đi và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng dệt may, đặc biệt là ngành dệt Việt Nam trong thời gian tới là một vấn đề hết sức quan trọng.
1.1.3 Những thuận lợi và khó khăn của ngành dệt may Việt Nam trong điều kiện Việt Nam là thành viên WTO
1.1.3.1 Cơ hội
Trước tiên phải nói đến là trở thành thành viên của WTO, Việt Nam sẽ được dỡ bỏ hạn ngạch, đồng thời được đối xử bình đẳng với tất cả các quốc gia cũng như các thị trường khác trên thế giới. Điều bày đặc biệt quan trọng bởi Việt Nam sẽ có cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu và tăng kim ngạch cũng như mở rộng cơ hội tìm kiếm thị trường. Cơ hội cũng mở ra khi Việt Nam có điều kiện khai thác một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng như Mỹ, bởi vì Mỹ sẽ không áp dụng biện pháp tự vệ với Việt Nam như đã áp dụng khi đàm phán gia nhập WTO với Trung Quốc trước đây do thoả thuận của hiệp định thương mại Việt - Mỹ.
Bên cạnh đó các rào cản xuất khẩu cũng dỡ bỏ, các doanh nghiệp Việt Nam không còn phải lo chạy vạy hạn ngạch, cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận với các thị trường mới mở rộng rất nhiều. Từ chỗ chỉ được xuất khẩu theo hạn ngạch, đến nay các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu theo năng lực thị trường, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện thâm nhập mạnh vào các thị trường nước ngoài.
Dòng đầu tư nước ngoài mới tiếp tục đổ vào Việt Nam, trong đó ngành dệt may là một trong những ngành thu hút đầu tư mạnh, tiếp tục cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế cũng như ngành dệt may cơ hội phát triển hơn nữa. Đặc biệt sự phát triển của ngành may sẽ là động lực tạo điều kiện phát triển theo và thu hút đầu tư vào ngành dệt và nhuộm. Trên cơ sở đó tiếp tục thu hút một lực lượng lao động lớn góp phần giải quyết việc làm cho xã hội.
Đồng thời với dòng đầu tư nước ngoài ngành dệt may Việt Nam cũng đón nhận trình độ quản lý và công nghệ mới tạo điều kiện cải thiện những máy móc thiết bị đã cũ, lạc hậu và tư duy cũng như công tác quản lý không còn phù hợp với điều kiện thị trường.
Việc sản xuất kinh doanh cũng nhiều thuận lợi hơn do thuế nhập khẩu nguyên, phụ liệu giảm và nguồn cung cấp cũng phong phú hơn, tạo điều kiện cho việc giảm giá thành, tăng chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao sực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đồng thời khi là thành viên WTO, với một thị trường rộng lớn và môi trường kinh doanh năng động và nhiều biến động hơn sẽ cho các doanh nghiệp Việt Nam cọ sát với thực tế và thích ứng với quy tắc, thông lệ và luật kinh doanh quốc tế. Những bài học từ các vụ kiện chống bán phá giá sẽ giúp cho các doanh nghiệp có kinh nghiệm và thực tiễn để đối phó với những sự kiện tiếp theo.
1.1.3.2. Thách thức
Ngành Dệt-May sử dụng một số nguyên phụ liệu chủ yếu như bông xơ,... dựa vào nguồn nhập khẩu là chính. Trong khi đó giá dầu trên thế giới bị biến động do tình hình chính trị trong một số khu vực trên thế giới không ổn định; hơn nữa với việc áp thuế nhập khẩu cho mặt hàng xơ polyester để bảo vệ và kích thích sản xuất trong nước của Chính phủ, làm cho giá nhập xơ cao, trong khi sản xuất trong nước về bông, xơ không đáp ứng được nhu cầu (đáp ứng bông khoảng 5%, xơ tổng hợp khoảng 30%), cho nên các doanh nghiệp vẫn phải nhập để đảm bảo sản xuất.
Các doanh nghiệp sản xuất Dệt-Nhuộm chưa có hiệu quả, đặc biệt là chưa làm chủ được kỹ thuật, làm chất lượng vải không ổn định. Vì vậy, chưa được khách hàng tiêu thụ sản phẩm may đánh giá để có thể trở thành nhà cung cấp vải cho các doanh nghiệp may gia công trong nước chứ chưa nói đến việc gia tăng xuất khẩu vải (vải đáp ứng: dệt kim khoảng 60%, dệt thoi khoảng 30%). Cũng chính vì thế mà khách hàng Mỹ thường chỉ định nhà cung cấp vải từ nước ngoài (như Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, ...) để cung cấp cho các doanh nghiệp may.
Không thể không nói đến là sức ép cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt hơn khi Việt Nam ngày một hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Trong thời gian tới Việt Nam sẽ mở cửa thị trường sâu hơn, do đó việc các “đại gia” dệt may trên thế giới cùng nhảy vào sẽ tạo ra một cuộc cạnh tranh khốc liệt và không loại trừ khả năng các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phá sản hàng loạt. Đặc biệt là hàng Trung Quốc khi không phải chịu thuế nhập khẩu thì sẽ là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong việc cạnh tranh không chỉ trên thị trường nội địa, như vậy không chỉ các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp lớn cũng phải lao đao. Khi những sự hỗ trợ và bảo hộ của chính phủ không còn, đồng thời thị trường bị chia sẻ cho các doanh nghiệp nước ngoài, sẽ rất khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc khẳng định vị trí và phát triển.
Đồng thời, một vấn đề cần đặc biệt lưu ý là kiện bán phá giá đối với hàng dệt may Việt Nam, đây không phải là nguy cơ mà đã đang và sẽ đe doạ các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này. Các thi trường mở rộng nhưng nguy cơ tiềm tàng trong đó cũng không phải là ít. Từ ngày 11/1/2007, hàng dệt may Việt Nam không còn phải chịu hạn ngạch khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, nhưng dưới áp lực của các nhà sản xuất dệt Hoa Kỳ, Bộ Thương Mại nước này đã đưa ra một rào cản mới, đó là việc xây dựng cơ chế giám sát nhập khẩu và tự khởi động điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường kinh doanh khi thị trường Mỹ chiếm đến trên 50% thị phần xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam. Nhiều nhà nhập khẩu lớn dè d