Ngành Công nghiệp Hoáchất (CNHC) nước ta là một ngành được hình thành 
khá sớm, ngay từ thời ký kháng chiến chống Pháp và hiện là ngành công nghiệp đa 
ngành, đa chủng loại sản phẩm. Nhìn chung, công nghệ và thiết bị sản xuất của 
CNHC nước ta hiện nay mới ở trình độ dưới trung bình của khu vực và thế giới; 
giá trị của nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng và công lao động thường chiếm tỷ 
lệ lớn trong giá thành sản phẩm xuất xưởng. Hầu hết các sản phẩm của CNHC chủ 
yếu vẫn tiêu thụ nội địa. Tuy đã có một số loại sản phẩm đã bắt đầuthâm nhập thị 
trường quốc tế như lốp ô tô, ac quy, phân lân nung chảy, v.v., nhưng có thể nhận 
thấy những sản phẩm có khả năng xuất khẩu của CNHC nước ta đều là những loại 
được sản xuất bằng công nghệ và thiết bị hiện đại, mới được nhập khẩu từ các 
nướctiên tiến (như lốp ô tô, ac quy, v.v.) hoặc các sản phẩm có liên quan đến ưu 
thế tài nguyên (như phân lân nung chảy), hoặc các sản phẩm gia công đơn thuần 
trên cơ sở nguyên liệu nhập ngoại (các chất giặt rửa, thuốc bảo vệ thực vật, v.v.).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 83 trang
83 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2062 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao tính cạnh tranh và hướng đầu tư phát triển các sản phẩm thuộc công nghiệp hóa chất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
ĐỀ TÀI 
NÂNG CAO TÍNH CẠNH TRANH VÀ 
HƯỚNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CÁC 
SẢN PHẨM THUỘC CÔNG NGHIỆP 
HÓA CHẤT 
HÀ NỘI - 2008 
 2 
MỤC LỤC 
 Trang 
I. GIỚI THIỆU CHUNG 
II. GIẢM CHI PHÍ SẢN XUẤT, YẾU TỐ QUAN TRỌNG 
NHẤT ĐỂ TĂNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH 
II.1. Một số nguyên nhân tăng chi phí sản xuất 
II.2. Một số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí đầu vào 
sản xuất 
II.2.1. Ảnh hưởng của giá điện 
II.2.2. Ảnh hưởng của giá nhiên liệu (than, xăng dầu và khí 
đốt) 
II.2. 3. Ảnh hưởng của chi phí vận tải 
II.2.4. Ảnh hưởng của giá nguyên liệu 
 3 
II.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm 
II.3.1. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp 
II.3.2. Các giải pháp nâng cao NLCT của sản phẩm công 
nghiệp 
II.3. 3. Thực tế áp dụng các giải pháp nâng cao NLCT sản 
phẩm công nghiệp 
III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN MỘT SỐ NGÀNH 
HÀNG THUỘC CNHC 
III.1. Kết quả đạt được khi tiến hành nâng cấp công nghệ 
các ngành sản xuất chủ lực thuộc CNHC 
III.1.1. Ngành sản xuất sản phẩm phân đạm từ than 
III.1.2. Ngành sản xuất sản phẩm supe lân 
III.1.3. Ngành sản xuất sản phẩm PLNC 
III.1.4. Ngành sản xuất sản phẩm phân NPK 
 4 
III.1.5. Ngành sản xuất sản phẩm cao su 
III.1.6. Ngành sản xuất sản phẩm xút- clo 
III.1.7. Ngành sản xuất sản phẩm pin-ac quy 
III.1.8. Ngành sản xuất sản phẩm chất giặt rửa 
III.2. Giải quyết những điểm chốt của quá trình sản xuất 
I. GIỚI THIỆU CHUNG 
 Chưa bao giờ mà chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh 
của nền kinh tế lại được đề cập nhiều như lúc này, không chỉ trên các phương tiện 
thông tin đại chúng, các diễn đàn hội nghị của các cấp, các ngành, mà cả ở các hội 
nghị của Chính phủ và tại các kỳ họp Quốc hội. Một trong những vấn đề có tầm 
quan trọng hàng đầu của chất lượng tăng trưởng, của hiệu quả sản xuất và sức 
cạnh tranh của nền kinh tế là chi phí đầu vào. Tỷ lệ chi phí trung gian so với giá trị 
sản xuất đã gia tăng từ 47,8% năm 1999 lên 50,4% năm 2000; 51,6% năm 2001 và 
 5 
52,1% năm 2002 và vẫn tiếp tục ở mức cao trong những năm gần đây. Chi phí đầu 
vào sản xuất tăng sẽ đẩy giá thành sản phẩm tăng và hệ quả tất yếu là giá bán sản 
phẩm phải tăng theo kéo theo giảm tính cạnh tranh của sản phẩm. 
 Ngành Công nghiệp Hoá chất (CNHC) nước ta là một ngành được hình thành 
khá sớm, ngay từ thời ký kháng chiến chống Pháp và hiện là ngành công nghiệp đa 
ngành, đa chủng loại sản phẩm. Nhìn chung, công nghệ và thiết bị sản xuất của 
CNHC nước ta hiện nay mới ở trình độ dưới trung bình của khu vực và thế giới; 
giá trị của nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng và công lao động thường chiếm tỷ 
lệ lớn trong giá thành sản phẩm xuất xưởng. Hầu hết các sản phẩm của CNHC chủ 
yếu vẫn tiêu thụ nội địa. Tuy đã có một số loại sản phẩm đã bắt đầu thâm nhập thị 
trường quốc tế như lốp ô tô, ac quy, phân lân nung chảy, v.v..., nhưng có thể nhận 
thấy những sản phẩm có khả năng xuất khẩu của CNHC nước ta đều là những loại 
được sản xuất bằng công nghệ và thiết bị hiện đại, mới được nhập khẩu từ các 
nước tiên tiến (như lốp ô tô, ac quy, v.v...) hoặc các sản phẩm có liên quan đến ưu 
thế tài nguyên (như phân lân nung chảy), hoặc các sản phẩm gia công đơn thuần 
trên cơ sở nguyên liệu nhập ngoại (các chất giặt rửa, thuốc bảo vệ thực vật, v.v...). 
 Để sản phẩm của CNHC tự tin bước vào hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề quan 
trọng là phải tăng sức cạnh tranh của sản phẩm bằng những biện pháp đồng bộ. 
Ngoài ra đối với mỗi doanh nghiệp và ngành hàng, việc xác định hướng đầu tư 
phát triển cũng rất quan trọng. Tiềm lực của doanh nghiệp là hữu hạn nên xác định 
đúng hướng cần đầu tư sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tập trung nguồn lực để 
không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và chính điều này có thể tác động đến sự phát triển 
của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 
 Ở đây chỉ đề cập đến vấn đề liên quan đến giảm chi phí sản xuất để nâng tính 
cạnh tranh và hướng đầu tư phát triển của một số sản phẩm thuộc CNHC. 
 6 
II. GIẢM CHI PHÍ SẢN XUẤT, YẾU TỐ QUAN TRỌNG NHẤT 
ĐỂ TĂNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH 
II.1. Một số nguyên nhân tăng chi phí sản xuất 
 Đối với một sản phẩm công nghiệp ở nước ta, hiện nay các nhà nghiên cứu 
kinh tế đều cho rằng có nhiều nguyên nhân làm gia tăng chi phí đầu vào, trong đó 
có thể tóm gọn vào 7 nguyên nhân chủ yếu sau đây: 
 Thứ nhất, sử dụng công nghệ cũ và lạc hậu. Hiện tại, mặc dù công nghiệp 
nước ta đã đạt được nhiều kết quả vượt trội, nhưng trình độ công nghệ nói chung 
còn thấp. Tỷ trọng doanh nghiệp công nghiệp của Việt Nam thuộc nhóm ngành 
công nghệ cao chỉ đạt 20,6%, thấp hơn tỷ trọng tương ứng 29,1% của Philippin, 
29,7% của Inđônêxia, 30,8% của Thái Lan, 51,1% của Malaixia, 73,0% của 
Xingapo. Công nghiệp Việt Nam thuộc nhóm trung bình thấp với tỷ lệ ngành công 
nghệ trung bình là 20,7%; còn ngành công nghệ thấp chiếm tới 58,7% , trong khi 
các ngành công nghệ thấp tương ứng ở Inđônêxia chiếm 47,7%, Philippin 45,7%, 
Thái Lan 42,7%, Malaixia 24,3%, Xingapo 10,5%. Trong các ngành công nghiệp, 
thì ngành công nghiệp chế biến của Việt Nam có tỷ lệ công nghệ tiên tiến là thấp 
nhất. Cụ thể, công nghệ cao chỉ chiếm 15,7%, công nghệ thấp chiếm tới 52,8%, 
còn lại là công nghệ trung bình. Nếu tính theo giá trị gia tăng thì tỷ trọng công 
nghệ cao của công nghiệp nước ta còn thấp hơn nữa, vì phần lớn những ngành 
công nghệ cao lại chủ yếu là lắp ráp. 
 7 
 Trình độ kỹ thuật - công nghệ thấp chủ yếu do vốn sản xuất kinh doanh thấp. 
Năm 2004, mức trang bị tài sản cố định bình quân trên 1 lao động của các cơ sở 
kinh tế cá thể ở nước ta chỉ có 8,6 triệu đồng, của doanh nghiệp ngoài quốc doanh 
chỉ có 36,6 triệu đồng, của doanh nghiệp Nhà nước cao hơn cũng chỉ có 132,1 
triệu đồng, còn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao nhất, đạt 191,6 
triệu đồng. Hệ số đổi mới tài sản cố định hiện mới đạt 19%, thấp hơn so với mức 
24 - 25% của mục tiêu đề ra. 
Thứ hai, tỷ lệ khấu hao tài sản cố định trong giá thành tăng lên, một mặt do 
đầu tư vào thiết bị công nghệ mới, mặt khác do tăng tỷ lệ trích khấu hao để thu hồi 
vốn nhanh. 
Việc lãng phí và thất thoát lớn trong đầu tư xây dựng và trong sản xuất, làm 
cho giá thành công trình vống lên không đúng thực chất, cũng góp phần làm gia 
tăng khấu hao. 
Ngoài ra không ít doanh nghiệp còn chủ động khai tăng chi phí đầu vào để 
gian lận thuế. 
Thứ ba, giá nhà đất tăng và đang ở mức rất cao, làm cho chi phí đầu tư xây 
dựng, chi phí thuê trụ sở, địa điểm sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong 
tổng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp, làm cho giá cả sản phẩm vật chất và 
dịch vụ dâng cao. 
Thứ tư, giá của nhiều chủng loại nguyên, nhiên vật liệu đầu vào là hàng 
nhập khẩu giá cao, với cước phí vận tải quốc tế tăng. Ngay trong 3 tháng đầu của 
năm 2008, chi phí đầu vào sản xuất tăng đột biến so với cùng kỳ năm 2007: giá 
xăng dầu tăng trên 50% làm tăng chi phí vận tải; giá sắt thép tăng gần gấp đôi làm 
tăng chi phí đầu tư, nghĩa là sẽ làm tăng khấu hao đưa vào giá thành sản phẩm; giá 
 8 
chất dẻo cũng tăng làm tăng chi phí bao bì, v.v... Trong tất cả các ngành sản xuất 
công nghiệp, ngay trong những tháng đầu năm 2008, giá các nguyên liệu nhựa, 
bông và sợi dệt, gỗ, sơn keo, v.v... đều tăng mạnh làm tăng chi phí về nguyên liệu 
trong các ngành hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu USD. Trong CNHC, giá phân 
bón và nguyên liệu sản xuất phân bón cũng tăng quá cao, có nhiều loại đã tăng giá 
1,5- 2 lần so với cùng kỳ năm 2007 như: DAP tăng gấp đôi lên trên 1000 USD/tấn; 
giá urê, kali, SA cũng tăng 1,5 lần so với cùng kỳ năm trước. Riêng giá lưu huỳnh 
hiện tại tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm 2007 và so với thời kỳ 2002-2003 thì 
tăng lên đến 6 lần. Chỉ một số mặt hàng trên đã làm mức đầu vào sản xuất tăng 
gần 1 tỉ USD, chiếm khoảng 5% tổng kim ngạch nhập khẩu trong 3 tháng đầu năm 
2008. 
Ngoài ra nhiều doanh nghiệp ở nhiều ngành kinh tế còn thay đổi chủng loại 
nguyên vật liệu, mua nguyên liệu có chất lượng cao hơn, có giá trị lớn hơn để phù 
hợp với thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu, để tăng tính cạnh tranh và đây 
cũng là một yếu tố làm tăng thêm chi phí đầu vào sản xuất. 
Thứ năm, việc tăng giá điện, giá xăng dầu, than, cước phí vận chuyển, lãi 
suất ngân hàng, tăng lương cho người lao động theo quy định về mức lương tối 
thiểu, v.v... đã trực tiếp tác động đến chi phí sản xuất. 
Thứ sáu, việc gia tăng các chi phí liên quan đến bảo vệ môi trường, bao 
gồm chi phí di chuyển nhà máy, chi phí xử lý chất thải cũng là yếu tố làm tăng 
thêm chi phí sản xuất. 
Thứ bảy, các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước, còn phải 
chịu gánh nặng nhiệm vụ xã hội như các khoản đóng góp cho chính sách xã hội, 
cứu trợ thiên tai bão lụt, trách nhiệm xây dựng địa bàn cơ sở, v.v... Các khoản 
 9 
đóng góp này đáng lẽ được trích từ quỹ phúc lợi của doanh nghiệp, nhưng ở một 
số doanh nghiệp do quỹ còn nhỏ bé so với nhu cầu phúc lợi của bản thân doanh 
nghiệp, nên doanh nghiệp đã tìm cách đưa chi phí này vào chi phí sản xuất, làm 
cho giá thành sản phẩm bị dâng cao. 
Trên đây là một số nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng chi phí đầu vào sản 
xuất của các sản phẩm công nghiệp ở nước ta. Cũng vì thế mà giá bán sản phẩm 
trong nước thường cao hơn so với giá sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế. 
Ví dụ so với giá nhập khẩu (CIF) thì giá xi măng sản xuất trong nước bằng 115%, 
giấy 127%, phân urê 131%, xút 163%, phôi thép 125%, đường 140% so với giá 
quốc tế; giá điện bán cho công ty nước ngoài, cước vận tải biển, cước phí thực tế 
về điện thoại quốc tế của nước ta cũng vẫn cao hơn hầu hết các nước trong khu 
vực và thường cao gấp 2 - 3 lần nước có mức giá trung bình. Xếp hạng năng lực 
cạnh tranh quốc gia của Việt Nam theo Diễn đàn kinh tế thế giới thuộc loại thấp, 
kém ổn định và chậm được cải thiện. 
CNHC nước ta hiện nay cũng có nhiều đặc điểm tương tự với các ngành sản 
xuất công nghiệp nói chung như đã trình bày ở trên, trong đó có thể thấy rõ một số 
nguyên nhân làm tăng chi phí đầu vào sản xuất của CNHC như sau: 
1. Giá của tất cả các loại nguyên, nhiên liệu và năng lượng đầu vào, bất kể 
cả là hàng nhập khẩu hoặc cung cấp trong nước, đều tăng cao. Đây là nguyên nhân 
chính dẫn đến làm tăng chi chí sản xuất của hầu hết các đơn vị thuộc CNHC. Ví 
dụ so với cách đây 1 năm giá lưu huỳnh cho sản xuất axit sunfuric, giá DAP, urê, 
kali làm nguyên liệu cho sản xuất phân bón đều tăng mạnh như đã nêu ở trên; giá 
chì cho sản xuất acquy cũng tăng 3 lần trong cùng thời kỳ. Giá xăng dầu trong 
nước trong thời gian gần đây cũng tăng mạnh theo giá dầu mỏ thế giới (khoảng 
gần 3 lần trong thời kỳ 2003-2008), Giá điện cho sản xuất, giá than đá cho sản 
 10 
xuất phân bón tuy được Chính phủ chỉ đạo nhưng cũng đã tăng nhiều đợt và tới 
đây sẽ tiếp tục tăng nữa. 
2. Nhiều dây chuyến sản xuất vẫn sử dụng công nghệ và thiết bị cũ, lạc hậu, 
khiến tỷ lệ sử dụng nhân công cao, hiệu suất sử dụng năng lượng thấp. Có một số 
dây chuyền sản xuất được đầu tư thêm thiết bị nhưng vẫn trong tình trạng chắp vá 
hoặc không đồng bộ. Có một số dây chuyền được đầu tư mới hoàn toàn với công 
và thiết bị tiên tiến nhưng thường lại hạn chế về công suất sản xuất, không tận 
dụng ưu thế về quy mô sản xuất để giảm giá thành. Từ trình độ công nghệ và thiết 
bị thấp lại thường đi đôi với chất lượng sản phẩm thấp, kém sức cạnh tranh, giá 
bán thấp kéo theo hiệu quả sản xuất thấp. 
Sở dĩ có hiện tượng này là do hầu hết các cơ sở thuộc CNHC đều khó khăn 
về vốn đầu tư. Hiện tại, tổng tài sản bình quân trên 1 lao động của nhiều doanh 
nghiệp trong ngành là thấp và giá trị về trang thiết bị bình quân trên 1 lao động 
càng rất thấp. Một số doanh nghiệp có dây chuyền đầu tư mới cũng chỉ có mức 
đầu tư cố định vài trăm triệu đồng/ lao động. Đối với các doanh nghiệp lớn có 
đông lao động như công ty Supephôtphát và Hoá chất Lâm Thao, Cổ phần Công 
nghiệp cao su miền Nam, TNHH một thành viên Phân đạm và Hoá chất Hà Bắc, 
TNHH một thành viên Apatit Việt Nam, v.v... thì mức bình quân về đầu tư trang 
thiết bị càng thấp. 
Tổng công ty Hoá chất Việt Nam (VINACHEM) là một tổng công Nhà 
nước lớn, đại diện cho ngành Công nghiệp Hóa chất nước ta, nhưng cũng đang 
phải đương đầu với tình trạng thiếu vốn đầu tư trong khi thiết bị sản xuất còn lạc 
hậu và thiếu đồng bộ (Bảng 1). Tuy trong những năm gần đây, tất cả các doanh 
nghiệp trong Tổng Công ty đều có các dự án đầu tư chiều sâu, nâng cấp thiết bị 
 11 
sản xuất, nhưng nhìn chung tỷ lệ đổi mới tài sản cố định (trong đó có thiết bị) vẫn 
thấp hơn so với mục tiêu đề ra. 
Bảng 1 : Mức đầu tư cố định của một số doanh nghiệp lớn của VINACHEM năm 
2007 
STT Tên doanh nghiệp, 
ngành nghề chính 
Giá trị 
 doanh 
nghiệp 
(triệu 
đồng) 
Giá trị 
thiết bị 
(triệu 
đồng) 
Số lượng 
lao động 
(người) 
Bình quân 
giá trị thiết 
bị/dầu người 
(tr. đ/người) 
1 Công ty Supephôtphat 
và Hoá chất Lâm Thao 
(sản xuất phân bón) 
1.278.312 45.560 3.155 14,5 
2 Công ty TNHH một 
thành viên Phân đạm và 
Hoá chất Hà Bắc (sản 
xuất phân bón) 
1.323.448 21.619 2.328 9,28 
 12 
3 Công ty Phân lân nung 
chảy Văn Điển (sản xuất 
phân bón) 
246.474 0,6 645 0,0 (?) 
4 Công ty CP Phân lân 
Ninh Bình (sản xuất 
phân bón) 
124.363 1.963 480 4,08 
5 Công ty CP Cao su Sao 
Vàng (sản xuất sản 
phẩm cao su) 
473.069 127.644 1.595 79,38 
6 Công ty CP Cao su Đà 
Nẵng(sản xuất sản phẩm 
cao su) 
584.408 122.706 1.608 76,30 
7 Công ty TNHH một 
thành viên Hoá chất Cơ 
bản miền Nam (sản xuất 
hoá chất) 
361.439 23.197 1.200 19,33 
8 Công ty TNHH một 
thành viên Apatit Việt 
Nam ( khai thác và 
906.135 64.612 2.959 21,83 
 13 
tuyển quặng apatit) 
9 Công ty CP Bột giặt LIX 
( sản xuất chất giặt rửa) 
152.173 8.351 867 9,63 
10 Công ty CP Thuốc sát 
trùng Việt Nam (sản 
xuất thuốc BVTV) 
276.922 12.197 520 23,45 
11 Công ty TNHH một 
thành viên Hơi kỹ nghệ 
–Que hàn (sản xuất que 
hàn và khí công nghiệp) 
204.424 97.312 590 164,93 
12 Công ty CP Ac quy Tia 
Sáng ( sản xuất acquy) 
137.094 32.899 305 107,86 
13 Công ty CP Pin- Acquy 
miền Nam (sản xuất pin 
và ac quy) 
442.319 52.479 1.650 31,81 
14 Công ty CP Phụ gia và 
sản phẩm dầu mỏ (sản 
xuất dầu mỡ nhờn và các 
65.383 6.074 110 55,21 
 14 
chất lỏng thuỷ lực) 
 Tổng cộng 6.605.963 616.613,6 18.012 34,23 
 Nguồn: VINACHEM 
 3. Quy mô sản xuất của hầu hết các dây chuyền sản xuất hiện có của CNHC 
đều nhỏ, không phát huy được hiệu quả về “quy mô sản xuất”, khiến sản phẩm 
phải “gánh” chịu chi phí cao về quản lý, hạ tầng cơ sở, v.v... Ngoài ra, do nhiều 
dây chuyền sản xuất không tận dụng triệt để được sản phẩm phụ, chất thải và năng 
lượng thải nên rất lãng phí, giá thành sản xuất càng cao, đồng thời còn có thể gây 
ra ô nhiễm môi trường. 
4. Vốn lưu động của các doanh nghiệp trong ngành đều rất thấp so với 
doanh thu, có doanh nghiệp vốn lưu động chỉ bằng một vài phần trăm tổng doanh 
thu trong năm, vì vậy ngoài khó khăn về nguồn vay vốn, thì lãi suất vốn vay cũng 
là một yếu tố góp phần tăng chi phí đầu vào sản xuất. Ngoài ra, nhiều sản phẩn của 
CNHC được tiêu thụ theo phương thức đại lý và trả chậm (nhất là các loại phân 
bón, săm lốp, v.v...) vì thế ảnh hưởng của việc thiếu vốn càng trầm trọng. 
5. Tỷ lệ khấu hao tài sản cố định trong giá thành sản phẩm đối với các dây 
chuyền đã hết khấu hao thường thấp, nhưng đối với các dây chuyền mới đầu tư 
thường khá cao. Lý do được đưa ra là do sức ép cần tăng tỷ lệ trích khấu hao để 
nhanh thu hồi vốn nhằm sớm đổi mới máy móc thiết bị hoặc đầu tư thêm thiết bị 
mới. 
 15 
6. Gia tăng các chi phí liên quan đến bảo vệ môi trường, bao gồm chi phí di 
chuyển nhà máy, chi phí xử lý chất thải tại nhiều doanh nghiệp trong ngành. Đặc 
biệt trong thời gian qua, các công ty như Supephôtphat và Hoá chất Lâm Thao, 
Phân bón Bình Điền, Phân bón miền Nam, Hoá chất cơ bản miền Nam, Hơi Kỹ 
nghệ- Que hàn, v.v...đã phải chi phí rất lớn để thực hiện chuyển đổi công nghệ sản 
xuất, di chuyển cơ sở sản xuất hoặc xử lý môi trường. 
7. Tất cả các doanh nghiệp trong ngành, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước 
còn phải có nghĩa vụ xã hội như các khoản đóng góp cho chính sách xã hội, cứu 
trợ thiên tai bão lụt, trách nhiệm góp phần xây dựng địa phương, v.v... Các khoản 
đóng góp này được lấy từ quỹ phúc lợi, nhưng suy cho cùng, thì cũng là từ sản 
xuất nên vẫn góp phần làm cho giá thành sản phẩm bị dâng cao. 
II.2. một số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí đầu vào sản xuất 
 Trong sản xuất công nghiệp, chi phí đầu vào sản xuất bao gồm nhiều yếu tố. 
Trong đó có các yếu tố tương đối “tĩnh” như khấu hao thiết bị, hạ tầng (liên quan 
đến vốn đầu tư ) và các yếu tố “động” như chi phí về nguyên liệu, nhiên liệu, năng 
lượng và chi phí tiền công lao động, thuế, công tác thị trường (liên quan đến sự 
vận động của vốn lưu động). 
 Ngoài ra các doanh nghiệp còn có những khoản chi phí khác như chi phí cho 
áp dụng tiêu chuẩn, bản quyền, môi trường và thực hiện các công tác xã hội, v.v... 
 16 
 Tuy nhiên việc phân chia như trên chỉ mang tính tương đối vì tuỳ theo điều 
kiện sản xuất kinh doanh của từng sản phẩm và trong từng giai đoạn cụ thể mà tác 
động của một số yếu tố nào đó sẽ nổi trội hơn. 
 Ở đây chúng tôi chỉ xem xét đến tác động của một số yếu tố như giá nguyên 
liệu, nhiên liệu và năng lượng và cước phí vận tải đối với chi phí đầu vào của sản 
phẩm. Vì các yếu tố này là những yếu tố quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và tính 
hiệu quả của một dây chuyền sản xuất, nhất là đối với các ngành công nghiệp sử 
dụng nhiều năng lượng (sản xuất xi măng, thép, hóa chất, v.v...), giá sản phẩm 
thấp (sản xuất phân bón, xi măng) hoặc có tỷ trọng về giá nguyên liệu cao trong 
giá thành sản phẩm (sản xuất giấy, một số hóa chất cơ bản, phân bón, ac quy, chất 
giặt rửa, săm lốp cao su, v.v...). 
III.2.1. Ảnh hưởng của giá điện 
Điện là một yếu tố có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của nhiều 
lĩnh vực công nghiệp vì dạng năng lượng này tạo nguồn động lực trong hầu hết 
các hoạt động của cơ sở sản xuất. Điện có vai trò trong các hoạt động sau đây của 
một cơ sở sản xuất công nghiệp: phát động và vận hành các hoạt động cơ học của 
các dây chuyền sản xuất, chiếu sáng, thông gió và đảm bảo môi trường sản xuất, 
đo lường và kiểm soát hoạt động của các thiết bị và dây chuyền sản xuất, phục vụ 
sinh hoạt của người lao động, v.v... 
Tuỳ theo từng ngành công nghiệp mà chi phí chung về điện có thể rất khác 
nhau trong giá thành sản phẩm. 
 17 
Thực tế trong thời gian qua, sự thay đổi (tăng) giá điện đã khiến hầu hết các 
ngành sản xuất nước ta bị ảnh hưởng. Giá nhiều sản phẩm công nghiệp tăng. 
Chúng ta đã biết, theo phương án giá điện bình quân tăng lên 842 đồng/kWh 
(cao hơn 7,6% so với trước đó) và các ngành sản xuất đặc thù như luyện thép, sản 
xuất nước sạch, phân urê, hóa chất... đã không được trợ giá điện từ 1/1/2007. Khi 
đó các doanh nghiệp sử dụng nhiều điện thuộc các ngành sản xuất trên đã phải 
xem xét ngay tác động của tăng giá điện tới lĩnh vực sản xuất của mình. 
Theo Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học thị trường giá cả Ngô Trí Long, 
việc tăng giá điện trong thời kỳ đó đã dẫn đến việc tăng giá thành sản xuất của 
nhiều mặt hàng thiết yếu như xi măng, sắt thép, phân bón, hóa chất, v.v...Tuy 
nhiên, việc tăng giá sẽ tùy thuộc vào đặc thù của từng loại sản phẩm do tỉ lệ sử 
dụng khác nhau về điện năng trong sản xuất. 
Để làm rõ tác động của giá điện đối với sản xuất công nghiệp ở nước ta, ở 
đây xin nêu một vài trường hợp điển hình có liên quan nhiều đến chi phí về điện. 
Sản xuất thép : 
Ông Phạm Chí Cường - Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cho biết, trước đây 
sản xuất phôi thép được hưởng giá điện ưu đãi, nhưng từ 1/1/2007 không còn nữa. 
Theo quy định của ngành Điện, giá điện dành cho sản xuất tăng 20% vào giờ cao 
điểm. Điều này sẽ có tác động nhiều đến sản xuất phôi thép. Lý do là phôi thép 
phải nấu luyện liên tục, không thể chỉ