Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam, ngành nuôi trồng thuỷ sản đã có những bước phát triển nhảy vọt, đã và đang được coi như là một ngành mũi nhọn trong tiến trình phát triển của nền kinh tế quốc dân, góp phần giải quyết việc làm cho đại đa số người dân.
Việt Nam có nhiều lợi thế cho việc phát triển nuôi cá biển. Điều kiện tự nhiên thuận lợi, với 3.260 km chiều dài bờ biển, diện tích vùng nuôi triều và các vũng, vịnh có thể nuôi trồng hải sản chiếm 60% diện tích mặt nước. Biển Việt Nam là biển nhiệt đới có nhiều loại cá biển có giá trị kinh tế và dinh dưỡng cao.
Cá chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790) là một trong những đối tượng nuôi không ngừng tăng về sản lượng và được nuôi phổ biển ở nhiều nơi. Thừa Thiên huế với diện tích đầm phá trên 22.000 ha là điều kiện tốt để nhân rộng mô hình nuôi cá chẽm. Để đạt được hiệu quả kinh tế cao trong ao nuôi thương phẩm, nhà kỹ thuật và người nuôi cần tìm ra mật độ nuôi phù hợp đảm bảo chỉ tiêu tăng trưởng, phát triển cho cá chẽm, tận dụng nguồn thức ăn, tránh gây ô nhiễm nguồn nước, dịch bệnh Được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm khoa Thuỷ Sản - Trường Đại Học Nông Lâm cùng với Giáo viên hướng dẫn, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ lên tốc độ sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790 ) tại Thuận An - Phú Vang - tỉnh Thừa Thiên Huế’’
46 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4531 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ lên tốc độ sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790 ) tại Thuận An - Phú Vang - tỉnh Thừa Thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam, ngành nuôi trồng thuỷ sản đã có những bước phát triển nhảy vọt, đã và đang được coi như là một ngành mũi nhọn trong tiến trình phát triển của nền kinh tế quốc dân, góp phần giải quyết việc làm cho đại đa số người dân.
Việt Nam có nhiều lợi thế cho việc phát triển nuôi cá biển. Điều kiện tự nhiên thuận lợi, với 3.260 km chiều dài bờ biển, diện tích vùng nuôi triều và các vũng, vịnh có thể nuôi trồng hải sản chiếm 60% diện tích mặt nước. Biển Việt Nam là biển nhiệt đới có nhiều loại cá biển có giá trị kinh tế và dinh dưỡng cao.
Cá chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790) là một trong những đối tượng nuôi không ngừng tăng về sản lượng và được nuôi phổ biển ở nhiều nơi. Thừa Thiên huế với diện tích đầm phá trên 22.000 ha là điều kiện tốt để nhân rộng mô hình nuôi cá chẽm. Để đạt được hiệu quả kinh tế cao trong ao nuôi thương phẩm, nhà kỹ thuật và người nuôi cần tìm ra mật độ nuôi phù hợp đảm bảo chỉ tiêu tăng trưởng, phát triển cho cá chẽm, tận dụng nguồn thức ăn, tránh gây ô nhiễm nguồn nước, dịch bệnh… Được sự đồng ý của Ban chủ nhiệm khoa Thuỷ Sản - Trường Đại Học Nông Lâm cùng với Giáo viên hướng dẫn, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ lên tốc độ sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790 ) tại Thuận An - Phú Vang - tỉnh Thừa Thiên Huế’’
* Mục đích của đề tài:
Nắm được thực trạng, qui trình nuôi cá chẽm thương phẩm tại Thuận An - Phú Vang và xác định mật độ nuôi cá chẽm thích hợp ở Thừa Thiên Huế.
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tình hình nuôi cá chẽm trên thế giới
Trong những năm gần đây, Nghề nuôi cá biển khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã có những bước phát triển đáng kể. Tổng sản lượng nuôi cá biển của toàn khu vực tăng 11% từ năm 2004 đến năm 2005. Quốc gia có sản lượng nuôi cá biển cao nhất hiện nay vẫn là Trung Quốc với sản lượng nuôi năm 2005 là 659,000 tấn và giá trị sản lượng ước tính khoảng 662 triệu USD. Đứng hàng thứ hai là Nhật Bản với 256,000 tấn sản lượng nhưng lại đứng đầu về giá trị với hơn 2 tỷ USD vì đối tượng nuôi chủ yếu là các loài có giá trị kinh tế rất cao. Hàn Quốc là nước thứ nhì về giá trị tổng sản lượng với 698 triệu USD từ 80,522 tấn sản lượng nuôi cá biển. Bên cạnh những đối tượng mang tính chất truyền thống như tôm biển, cá rôphi,..vốn từ lâu chỉ là đối tượng khai thác nay đang bắt đầu được chú trọng trong nghề nuôi. Một trong số đó là cá chẽm (Lates calcarifer bloch, 1970 ).
Cá chẽm là loài có giá trị kinh tế cao và được thế giới quan tâm phát triển nuôi từ lâu. Nghề nuôi cá chẽm được hình thành từ thập kỷ 70 ở Songkla – Thái Lan và được nhân rộng ở các nước Châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Singgapo, Malasia, Indonesia,.. đóng góp không nhỏ vào sản lượng cá biển thế giới.[8]
Theo thống kê của FAO (2006) tổng sản lượng nuôi cá chẽm trên thế giới tăng 37,4% so với năm 1990. Loài cá này phân bố dọc theo bờ biển các nước như Ấn Độ, Vịnh Belgan, Indonesia, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan,.. Các nước trên thế giới đã có thế mạnh trong việc nuôi đối tượng này, vì họ đã sản xuất nhân tạo thành công về con giống, mô hình nuôi phù hợp với điều kiện môi trường, điều kiện kinh tế đã mang lại hiệu quả kinh tế cao và ổn định.[13]
Sản lượng nuôi cá chẽm Châu Á năm 2005 tương đối ổn định ở mức 26,584 tấn, chỉ tăng nhẹ so với 25,399 tấn năm 2004. Thái Lan hiện là nước dẫn đầu về sản lượng nuôi cá chẽm trong khu vực. So với năm 2004, giá trị sản lượng cũng tăng nhẹ từ 65.08 triệu USD lên 68.52 triệu USD với giá bán khá ổn định, trung bình mỗi ký cá chẽm thương phẩm dao động trong khoảng 2.50- 2.60 USD.
Hình 1: Sản lượng cá chẽm trên toàn cầu qua các năm (FAO, 2007)
Trên cơ sở những công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh học của cá chẽm, nhiều nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu về ương nuôi cá chẽm, mật độ và những yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sống trong quá trình ương. Theo FAO (1898), tỷ lệ sống của ấu trùng và cá chẽm bột phụ thuộc vào nhiệt độ nước, độ mặn , mật độ cá, thức ăn và cách cho ăn.[14]
- Nhiệt độ nước: Tỷ lệ sống của ấu trùng cao khi nhiệt độ nước ổn định ≥ 28oC nhưng khi nhiệt độ ≤ 26oC thì tỷ lệ sống và sinh trưởng của ấu trùng sẽ thấp.
- Độ mặn: Trong hai tuần đầu, độ mặn nước trong bể ương nuôi ấu trùng nên duy trì ở 28-30‰ . Sau hai tuần, có thể giảm độ mặn xuống khoảng 25-28‰ và duy trì ở 25‰ sau ba tuần ương.
Năm 1983, Maneewongsa & ctv cho rằng mật độ nuôi tối đa ban đầu đối với cá chẽm bột từ 1-12 ngày tuổi là 50 con/lít. Nếu nuôi mật độ cao hơn thì tỷ lệ sống và tốc độ sinh trưởng của cá sẽ giảm.
Kungvankij & ctv (1986) đề nghị mật độ ương cá bột mới nở từ 50 - 100 con/lít. Mật độ tối đa cho phép cá chẽm giai đoạn 13 - 29 ngày tuổi sinh trưởng bình thường từ 10 - 20 con/lít.
Suteemechaikul & Petchrid (1987) đã đưa ra mật độ tối đa trong ương nuôi cá chẽm giai đoạn từ 25 - 50 ngày tuổi là 20 con/lít.
Theo Khamis & Hanafi (1987), mật độ nuôi có ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá chẽm. Một trong những nguyên nhân gây nên tỷ lệ sống thấp là do hiện tượng ăn nhau.
Tattanon & Maneewongsa (1988) cho rằng mật độ ương cá chẽm phụ thuộc vào tuổi và kích cỡ cá. Theo các tác giả này, mật độ ương thích hợp đối với cá chẽm giai đoạn 1- 7 ngày tuổi là 60 - 100 con/lít.
Trino & Boliva (1993) thí nghiệm ương cá chẽm hương trong ao đất ở hai mật độ là 5 con/m2 và 7 con/m2. Kết quả cho thấy ương với mật độ 5 con/m2 thì tỷ lệ sống cao và tốc độ sinh trưởng nhanh.
Hatziathanasiou & ctv (2002) xác định mật độ ương cá nhỏ (50, 100, 150 và 200 con/lít) không ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ sống. Với cá lớn, ương ở mật độ (5,10 con/lít) cho tỷ lệ sống cao hơn (15-20 con/lít) trong khi đó, sinh trưởng cao nhất ở mật độ 5 con/lít và thấp nhất ở 10 con/lít thức ăn có carbohydrate cao hơn, cá tăng trưởng tốt hơn.
Cá chẽm được ương nuôi rất phổ biến trên thế giới, tỷ lệ sống cao, sinh trưởng nhanh, chất lượng con giống tốt. Do vậy nguồn giống cung cấp cho các trại nuôi rất chủ động, giảm giá thành trong sản xuất. Ngoài ra, cá chẽm có nhiều hình thức nuôi khác nhau, có thể nuôi lồng, nuôi ao, nuôi đơn , có thể nuôi ghép, ...
Sinh sản nhân tạo cá chẽm thành công đầu tiên ở Thái Lan vào những năm 1971 (Wongsomnuk & Maneewoongsa, 1972) bằng phương pháp vuốt trứng từ những cá bố mẹ đã chín muồi sinh dục bắt được tại bãi đẽ tự nhiên. Năm 1973, Wongsomnuk & Maneewoongsa đã thành công trong việc kích thích cá nuôi vỗ cho đẻ bằng cách tiêm thuốc kích thích. Năm 1981, Kungvakij đã kích thích cho cá đẻ thành công bằng phương pháp điều chỉnh môi trường, vòng đời của loài cá này đã được khép kín. Hiện tại, mỗi năm Thái Lan sản xuất trên 100 triệu cá giống (Anon, 1985), trong đó trạm Thuỷ sản sản xuất hơn 30 triệu (Kungvankij, 1984). Như vậy, giống nhân tạo đã trở thành nguồn chủ yếu cho các trại nuôi cá chẽm ở những nước này.[8]
2.2 Tình hình nuôi cá chẽm ở Việt Nam
Nuôi trồng thủy sản đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế ở Việt Nam và đã được FAO đánh giá là một phương tiện xóa đói giảm nghèo hiệu quả. Mục tiêu đầy tham vọng của ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam là sản xuất ra 2 triệu tấn sản phẩm chủ yếu là từ nuôi biển vào năm 2010 đã nhận được sự hỗ trợ to lớn cả về tài chính cũng như kỹ thuật từ Bộ Thủy sản (Việt Nam) và một số tổ chức quốc tế khác.[8]
Việt Nam có diện tích đất liền khoảng 330.000km2 và một vùng biển đặc quyền kinh tế khoảng trên 1.000.000km2. Khu vực bờ biển nước ta với chiều dài 3.260 km bờ biển chạy dài từ Bắc vào Nam, với nhiếu đầm phá nước lợ ven biển, đặc biệt vùng ven biển Miền Trung là một thế mạnh, một tiềm năng hiếm thấy để phát triển nghề nuôi mặn, lợ. Biển Việt Nam có rất nhiều loài có giá trị kinh tế để phát triển nghề nuôi cá biển. [6]
- Cá song: Trong 7 loài cá song có mặt ở nước ta là song mỡ( E.pinephelus tauvina), song dẹt ( E.bleekeri), song chấm đỏ (E.akaara), mú hoa nâu ( E.fuscoguttatus), mú vạch (E.brunnes), mú chấm tổ ong (E.merra), song cáo (E.megachir) nhưng chỉ có 3 loài có giá trị kinh tế cao được nuôi rộng rãi là cá song mỡ, cá song dẹt, cá song chấm đỏ. [6]
- Cá hồng: có 4 loài có giá trị kinh tế là: Lutjanus erythropterus, L.argentimaculatus, L.malabaricus, L.johnii. [6]
- Cá tráp: có 3 loài có giá trị cao là: cá tráp đỏ (Pagrus major), cá tráp vàng (Sparus latus), cá tráp (Tains tumifrons). [6]
- Cá chẽm: có 2 loài là cá chẽm ( Lates calcarifer) và cá chẽm mõm nhọn (Psammoperca waigiensis). [6]
- Cá cam: Seriola dumeril [6]
- Cá măng: Chanos chanos [6]
- Cá giò: Rachycentron canadum [6]
Việc chọn đối tượng nuôi có ý nghĩa rất quan trọng trong nghề nuôi cá biển. Đối tượng nuôi phải có giá trị kinh tế cao đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước và ngoài nước, đặc biệt là phải chủ động nguồn giống cả về số lượng, chất luợng và tính mùa vụ.
Ở Việt Nam, cá chẽm phân bố dọc theo bờ biển các tỉnh như Quảng Ninh, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hoà, Bình Thuận, Vũng Tàu, Nam Bộ và quần đảo Trường Sa.
Cá chẽm đã được đưa vào nghiên cứu, sản xuất giống nhân tạo ở các Viện Nghiên Cứu Thuỷ Sản I, II, Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Nha Trang từ những năm 1994. Tuy nhiên, kết quả đạt được còn hạn chế. Năm 2000, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ Sản II đã nghiên cứu thành công và xây dựng quy trình công nghệ sản xuất nhân tạo giống cá chẽm khép kín từ quy trình từ việc thuần dưỡng và nuôi cá bố mẹ thành thục trong bể xi măng, kích thích sinh sản, ương nuôi cá bột thành cá giống. Viện đã và đang chuyển giao công nghệ sản xuất giống cá chẽm cho một số tỉnh ở ĐBSCL,...
Một số công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái, các loài thức ăn khác nhau lên quá trình sinh trưởng và phát triển của cá chẽm trong quá trình nghiên cứu của Nguyễn Quang Huy (1999) cho rằng thức ăn tốt nhất cho cá chẽm ở giai đoạn 20- 40 ngày tuổi là Rotifer kết hợp với Nauplius của Artemia.
Lương Công Trung (1999) đã tiến hành thử nghiệm sản xuất nhân tạo cá chẽm bột từ cá chẽm thành thục ngoài tự nhiên với tỷ lệ nở là 50,4-85%.[10]
Võ Ngọc Thám (2000) nghiên cứu sản xuất thử giống cá chẽm với kết quả: Ấp nở phôi trứng ở mật độ 60-120 trứng/ml ( nhiệt độ 29-30oC, độ mặn 29-30‰), đạt kết quả 0,5-95% và ương nuôi cá con từ 15-25 ngày tuổi bằng Arrtemia có tỷ lệ sống cao nhất, dùng thức ăn tổng hợp N2 có tỷ lệ sống thấp, dùng Artemia+N2 cũng cho tỷ lệ sống tương đối cao.[7]
Huỳnh Văn Lâm (2000) xác định mật độ ương thích hợp cho cá chẽm bột mới nở là 50 con/lít và thức ăn được làm giàu bằng dầu gan mực cho tốc độ sinh trưởng nhanh hơn, tỷ lệ sống cao hơn.[7]
Phan Văn Út (2005) nghiên cứu bệnh do sán đơn chủ trên một số loài cá biển( cá mú, cá hồng và cá chẽm) với kết quả bệnh do mè cá là 71,4% và bệnh sưng mang là 60,3%. Từ đó đưa ra các biện pháp phòng trị bằng fôrml: 200-250 ppm bằng H2O2: 100-200 pmm; bằng Hadaclean: 10-15 pmm để tắm cho cá và kết quả có thể diệt được 90-100% sán lá đơn chủ ký sinh.
Theo Phạm Thị Hạnh (2007) cá chẽm sinh trưởng chiều dài nhanh nhất ở mật độ ương 10con/lít, 50con/lít nhưng có xu hướng giảm dần khi mật độ tăng từ 70 con/lít -150 con/lít. Tác giả cho rằng thức ăn tươi sống (Rotifer, Artemia) được làm giàu bằng dầu cá thu, dầu cá thuyết và dầu mực không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống nhưng có tác dụng làm tăng tốc sinh trưởng của cá chẽm giai đoạn mới nở đến 29 ngày tuổi so với thức ăn không làm giàu và mật độ luân trùng tốt nhất cho cá chẽm bột là 35con/ml...
Nhiều hộ nuôi ở Cam Ranh (Khánh Hoà) đạt lợi nhuận từ 70-100 triệu đồng trên ha sau 7-8 tháng nuôi thương phẩm theo mô hình nuôi thâm canh với cá rô phi và tôm sú, với thành công này nhiều địa phương khác trong cả nước tiếp tục đề nghị chuyễn giao công nghệ sản xuất giống cá chẽm bằng con đường sinh sản nhân tạo để có thể tự sản xuất giống tại địa phương (Hoàng Minh Nguyệt Thông tấn xã Việt Nam, 2007).
Cá chẽm có giá trị kinh tế cao, dễ nuôi, có tốc độ phát triển tốt, có đặc điểm sống phù hợp với các vùng nuôi nước lợ, đặc biệt là các ao nuôi tôm sú vùng triều, được nuôi với nhiều hình thức: nuôi trong ao đất, nuôi lồng tại nhiều địa phương: Khánh Hoà, Bà Rịa Vũng tàu, Bình Định,...Cá chẽm thương phẩm ngoài tiêu thụ nội địa, chủ yếu để xuất khẩu sang: Hồng Kông, Đài Loan, Pháp, Mỹ,...
2.3.Tình hình nuôi cá chẽm ở Thừa Thiên Huế
Trong những năm gần đây, cá chẽm là một trong những đối tượng nuôi mới được bà con nông ngư dân đưa vào nuôi trong lồng và các ao đầm nước lợ. Việc sản xuất hàng hoá theo nhu cầu của thị trường, đa dạng hoá sản phẩm là một chủ trương lớn của Nhà nước ta nói chung và của Tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng giúp cho sản phẩm sản suất ra được tiêu thụ một cách dễ dàng hơn, giá bán cao hơn. Vì vậy, việc đưa cá chẽm vào nuôi rộng rãi trong tỉnh là việc làm cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng trên một đơn vị diện tích mặt nước, đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu thị trường, đa dạng hoá đối tượng sản phẩm, hạn chế rủi ro để bà con nuôi cá chẽm đúng kỹ thuật, đạt năng suất cao. Chính vì vậy, Ở Thừa Thiên Huế, hai năm trở lại đây số người nuôi cá chẽm tăng. Người dân đã bước đầu nuôi cá chẽm ở một số địa phương thuộc khu vực phía Bắc phá (Điền Hương, Điền Hải, Phong Hải, Phong Chương, Quảng Công, Hải Dương...) với hai hình thức nuôi chủ yếu là ao nuôi và nuôi lồng. Các ao nuôi tại địa phương có diện tích trung bình từ 1000–3000 m2, mật độ nuôi 1–3 con/m2¸ kích cỡ giống thả 1–3cm/con. Lượng cá giống được mua chủ yếu ở Nha Trang. Đa số các ao nuôi cá chẽm tại Quảng Công, Quảng Điền là các ao được chuyển từ các ao nuôi tôm sang.[11]
Người dân ở Thừa Thiên Huế chủ yếu nuôi cá Chẽm 1vụ/ năm với thời gian nuôi 7– 10 tháng. Với nguồn thức ăn chủ yếu là cá tạp, cho ăn 2lần/ngày, người dân địa phương có thể chủ động trong việc tìm nguồn thức ăn cho ao nuôi. Do cá chẽm mới được tiến hành nuôi tại tỉnh trong một vài năm gần đây nên chưa thấy xuất hiện dịch bệnh trong quá trình nuôi, đây là một đặc điểm thuận lợi cho bà con ngư dân trong việc thực hiện chuyển đổi từ ao nuôi tôm sang nuôi cá chẽm có hiệu quả cao.
Từ năm 2006 trung tâm khuyến ngư tỉnh Thừa Thiên Huế được sự tài trợ của chương trình Phát triển nông thôn Thừa Thiên Huế đã triển khai một số mô hình nuôi cá chẽm trong ao đất, nuôi cá chẽm nước ngọt tại Phong Chương, Điền Hương, Điền Hòa, Phong Điền. Tại xã Hải Dương - Huyện Hương Trà đã tiến hành nuôi cá chẽm trong lồng ở vùng nước lợ mang tính chất tự phát ( khoảng 100 lồng nuôi). Trong đó, mô hình nuôi cá chẽm trong ao đất tại Phong Điền, Quảng Điền đạt trọng lượng trung bình 500 – 600g/con, tỷ lệ sống 70%. Mô hình nuôi cá chẽm trong lồng có trọng lượng trung bình đạt 650g/con tỷ lệ sống 70% với thời gian nuôi trên 8 tháng, sử dụng thức ăn tươi, với tổng diện tích nuôi cá chẽm trong ao đất toàn tỉnh gần 20ha.[11]
Năm 2008, ở làng Hương Giang - xã Hải Dương - Huyện Hương Trà (Thừa Thiên Huế) phát triển rầm rộ nghề nuôi cá chẽm trong lồng và hàng trăm hộ dân đã có của ăn của để. Theo ước tính mỗi năm làng này thu hoạch được từ 50 đến 60 tấn cá chẽm, doanh thu đạt khoảng 3,5 đến 4 tỷ đồng.
Do giá trị kinh tế cao, thời gian qua người dân ở vùng đầm phá Thừa Thiên Huế đã tự phát nuôi cá chẽm trên diện rộng với thức ăn phổ biến là cá tươi. Cuối vụ sau khi tính toán các chi phí cho con giống, thức ăn, vôi, hoá chất... người dân đều có lãi.
Tiêu biểu có các mô hình nghiên cứu cá chẽm ở Thừa Thiên Huế như:
- Mô hình bằng lồng nước lợ quy mô 120m3, thực hiện tại thị trấn Thuận An.
- Mô hình nuôi cá chẽm nước ngọt quy mô 0,5 ha xã Vinh Giang - Phú Lộc.
- Mô hình ương cá chẽm trong ao đất với quy mô 0,2 ha thực hiện tại xã Quảng Công - Huyện Quảng Điền, sản lượng thu hoạch đạt 0,225 tấn, lãi19,02 triệu đồng.
Đây là một đối tượng nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương, cá chẽm có tốc độ phát triển nhanh, kỹ thuật nuôi không phức tạp, chi phí không cao, là một đối tượng sẽ được phát triển và nhân rộng trong thời gian tới. Hiện nay, môi trường nguồn nước nuôi tôm ở một số vùng triều bị suy thoái cho nên việc đưa cá chẽm vào nuôi trong ao nước lợ sẽ góp phần chuyển đổi, đa dạng đối tượng nuôi thuỷ sản, hạn chế thiệt hại cho người dân trong nhũng vùng nuôi tôm.
2.4. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản tại Thuận An – Phú Vang
2.4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại Thuận An – Phú Vang
2.4.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.4.1.1.1. Vị trí địa lý
Thuận An là thị trấn ở hạ nguồn sông Hương nằm ở vùng ven biển và đầm phá có diện thích đất tự nhiên là 1.703 ha.
Phía Đông giáp với biển Đông.
Phía Tây giáp với xã Phú Thanh, xã Phú Dương.
Phía Nam giáp với xã Phú Thuận, xã Phú An.
Phía Bắc giáp với huyện Hương Trà, xã Phú Thanh.
2.4.1.1.2. Điều kiện khí hậu, thuỷ văn.
Thuận An chịu ảnh hưởng chung của thời tiết khí hậu nhiệt đới gió mùa, với 2 hướng gió chính: gió mùa tây nam và gió mùa đông bắc nên thường xuyên chịu ảnh hưởng của nhiều cơn bão đi qua, bão thường xuyên xảy ra từ tháng 8 đến tháng 11.
● Nhiệt độ: Mỗi năm thường chỉ có 2 mùa chính là mùa khô và mùa mưa. Mùa khô bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 7; nhiệt độ trung bình thấp nhất là 21,6 0C; nhiệt độ trung bình cao nhất là 30,10C. Mùa mưa thường bắt đầu vào tháng 8 đến tháng 1 năm sau.
● Độ ẩm: thị trấn Thuận An nói riêng và tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung thì mùa mưa thường là mùa lạnh, mùa khô thường là mùa nóng. Độ ẩm trung bình hàng năm là 85%; trong đó tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 1: 92%; tháng có độ ẩm thấp nhất là tháng 7: 76%.
● Mưa: Do địa hình đồng bằng ven biển nên có lượng mưa thấp, số ngày mưa ngắn hơn so với vùng miền núi của tỉnh, lượng mưa trung bình năm khoảng 2550 mm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng 2 năm sau. Đỉnh mưa dịch chuyển trong 4 tháng là từ tháng 9 đến tháng 12. Riêng tháng 11 có lượng mưa nhiều nhất chiếm tới 30 % lượng mưa cả năm.
Ngoài những đặc điểm nêu trên, điều kiện thời tiết, khí hậu trong nhiều năm trở lại đây diễn biến khá phức tạp. Lụt bão thường xuyên xảy ra đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, đặc biệt là nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản cũng như đời sống của nhân dân.
2.4.1.1.3. Tình hình sử dụng đất đai
Tài nguyên đất đai thị trấn Thuận An có nhiều giá trị về sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản. Với diện tích 1.703 ha việc bố trí đất sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và đất chuyên dùng tương đối hợp lý. Tuy nhiên, đất chưa sử dụng chiếm tỷ lệ cao.
Bảng 1: Hiện trạng sử dụng đất ở thị trấn Thuận An 2009
TT
Loại đất
Diện tích (ha)
Tổng diện tích đất tự nhiên:
1.703
1
Đất nông nghiệp:
416,26
1.1
Đất sản xuất nông nghiệp
33,84
1.2
Đất sản xuất lâm nghiệp
74,60
1.3
Đất sản xuất thủy sản
307,82
2
Đất phi nông nghiệp:
1.218,06
2.1
Đất ở
125,34
2.2
Đất chuyên dùng
147,97
2.3
Đất trụ sở CQ-SN
0,76
2.4
Đất quốc phòng
15,84
2.5
Đất an ninh
1,12
2.6
Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp
36,87
2.7
Đất có mục đích cộng đồng
93,38
2.8
Đất tôn giáo tín ngưỡng
2,08
2.9
Đất nghĩa địa, nghĩa trang
26,00
2.10
Đất diện tích suối, mặt nước
913,94
2.11
Đất phi nông nghiệp khác
2,73
3
Đất chưa sử dụng:
68,68
3.1
Đât bằng chưa sử dụng
68,68
(Nguồn: Số liệu thống kê của thị trấn năm 2009)
2.4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Năm 2006, tổng dân số thị trấn Thuận An 20.242 khẩu, 3.766 hộ, bình quân 6 người trên hộ. Tỷ lệ phát triển dân số là 1,3 %, dân cư phân bố khá đồng đều trên địa bàn và có mật độ dân số bình quân là 1.187 người/km2. Tổng lao động trên toàn thị trấn có 8.572 hộ.
Bảng 2: Tình hình kinh tế xã hội năm 2009
STT
Chỉ tiêu chủ yếu
Ước thực hiện
I
Về kinh tế:
17.38
1
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) (%).
27,79
Trong đó: Dịc