Cây chè (Camelia sinensis (L O.Kuntze)) là cây công nghiệp dài ngày, chỉ một lần trồng cho thu hoạch 30-40 năm. Lá chè tươi chứa khoảng 40% caffein. Lá non và các lá có màu xanh lục nhạt được thu hoạch để sản xuất chè. Các loại chè xanh, chè đen, chè đỏ, chè vàng đều được chế biến từ búp chè tươi. Nước chè là loại nước giải khát rất tốt cho con người. Uống chè là một thói quen truyền thống không những của Việt Nam mà còn là hoạt động văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc của nhiều nước trên thế giới.
Việt Nam được xác định là một trong tám cội nguồn của cây chè. Có điều kiện địa hình, đất đai, khí hậu phù hợp cho cây chè phát triển cho chất lượng cao. Hiện sản phẩm chè của Việt Nam đã có mặt trên 110 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đặc biệt thương hiệu “CheViet”đã được đăng ký và bảo hộ trên rất nhiều thị trường của các quốc gia trên thế giới và khu vực. Việt Nam hiện đang là quốc gia đứng thứ 5 trên thế giới về sản lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu chè.
Việt Nam là một trong những nước có lịch sử trồng chè lâu đời. Hiện nay cả nước có khoảng 120.000 ha chè, tuy nhiên năng suất, chất lượng chè của nước ta còn thấp so với các nước trên thế giới. Nhưng nhiều hộ trồng chè vùng trung du vẫn đạt 15-20 tấn/ha. Chè cho thu hoạch quanh năm kể cả những tháng khô hạn. Trên khắp vùng trồng chè trên cả nước ta thấy rắng những chỗ đất tốt, có độ dốc thích hợp đã được trồng chè, những diện tích quy hoạch trồng chè còn lại ở vùng trung du miền núi hầu hết là đất màu, mới phá bỏ cây trồng trước hoặc trồng lại 2 - 3 chu kỳ do vậy khi tiến hành trồng chè cần phải tiến hành cải tạo đất, áp dụng biện pháp kỹ thuật phù hợp để nâng cao hiệu quả kinh tế (Nguyễn Hữu Khải, 2005) [8].
61 trang |
Chia sẻ: tienduy345 | Lượt xem: 2189 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu ảnh hưởng của một số vật liệu tủ gốc đến sinh trưởng và năng suất của giống chè TRI777 trong vụ Xuân năm 2012 tại xã La Bằng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Trong qua trình thực hiện đề tài, em luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ tận tình của UBND xã La Bằng, sự quan tâm tạo điều kiện của Khoa kỹ thuật Nông Lâm, Ban giám hiệu Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật, sự phối hợp và giúp đỡ của gia đình và bà con nông dân xã La Bằng.
Trước hết, em bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Võ Quốc Việt đã giành nhiều thời gian quý báu tận tình chỉ bảo em trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Em xin trân trọng cảm ơn UBND xã La Bằng, Ban chủ nhiệm Khoa kỹ thuật Nông Lâm, Ban Giám hiệu Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để em thực hiện và hoàn thành đúng tiến độ bài khóa luận.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tập thể lớp K5CĐ - TT luôn đồng hành và giúp đỡ em thực hiện đề tài này.
Do điều kiện thời gian và trình độ còn hạn chế nên bài khóa luận của em không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và các bạn, để bài khóa luận của em được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2012
Sinh viên
Phạm Thanh Xuân
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Trang
Bảng 1.1: Ảnh hưởng của tưới nước, tủ gốc đến năng suất và chất lượng chè Đông Xuân tại xã Phú Hộ- tỉnh Phú Thọ 13
Bảng 1.2: Diện tích, năng suất, sản lượng chè thế giới từ năm 2002-2010 16
Bảng 1.3: Tình hình sản lượng chè của thế giới và một số nước có sản lượng chè cao từ năm 2005- 2010 17
Bảng 1.4: Diện tích, năng suất, sản lượng chè của Việt Nam từ năm 2005-2010 20
Bảng 1.5: Tình hình sản xuất chè của tỉnh Thái Nguyên từ năm 2005 – 2010 23
Bảng 3.1: Diễn biến khí hậu vụ Xuân năm 2012 tại Thái Nguyên 33
Bảng 3.1: Ảnh hưởng của vật liệu che phủ đến chiều rộng tán chè 36
Bảng 3.2: Ảnh hưởng của vật liệu che phủ đến đường kính thân chè 37
Bảng 3.3: Ảnh hưởng của vật liệu che phủ đến chiều cao cây 38
Bảng 3.4: Ảnh hưởng của vật liệu che phủ đến mật độ búp chè 39
Bảng 3.5: Ảnh hưởng của vật liệu che phủ đến khối lượng búp chè 40
Bảng 3.6: Ảnh hưởng của vật liệu che phủ đến chiều dài búp 41
Bảng 3.7: Ảnh hưởng của vật liệu che phủ đến tỷ lệ búp mù xòe 42
Bảng 3.8: Ảnh hưởng của vật liệu che phủ tới năng suất búp tươi 43
Bảng 3.9: Ảnh hưởng của vật liệu che phủ đến khối lượng cỏ dại ở các công thức 45
Bảng 3.10: Ảnh hưởng của vật liệu che phủ tới diễn biến mật độ rầy xanh 46
Bảng 3.11: Ảnh hưởng của vật liệu che phủ tới diễn biến mật độ bọ cánh tơ 48
Bảng 3.12: Ảnh hưởng của vật liệu che phủ tới diễn biến mật độ bọ xít muỗi 49
Hình 3.1: Biểu đồ thể hiện ảnh hưởng của vật liệu che phủ tới năng suất búp tươi 44
Hình 3.2: Biểu đồ thể hiện ảnh hưởng của vật liệu che phủ tới diễn biến mật độ rầy xanh 47
Hình 3.3: Biểu đồ thể hiện ảnh hưởng của vật liệu che phủ tới mật độ bọ cánh tơ 48
Hình 3.4: Biểu đồ thể hiện ảnh hưởng của vật liệu che phủ tới diễn biến mật độ bọ xít muỗi 50
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH-HĐH
: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
CT
: Công thức
CV%
: Hệ số biến động
Đ/C
: Đối chứng
GAP
: Good Agricultural Practices – Sản xuất nông nghiệp bền vững
LSD.05
: Sai khác có ý nghĩa
NXB
: Nhà xuất bản
NL
: Nhắc lại
TB
: Trung bình
UBND
: Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cây chè (Camelia sinensis (L O.Kuntze)) là cây công nghiệp dài ngày, chỉ một lần trồng cho thu hoạch 30-40 năm. Lá chè tươi chứa khoảng 40% caffein. Lá non và các lá có màu xanh lục nhạt được thu hoạch để sản xuất chè. Các loại chè xanh, chè đen, chè đỏ, chè vàng đều được chế biến từ búp chè tươi. Nước chè là loại nước giải khát rất tốt cho con người. Uống chè là một thói quen truyền thống không những của Việt Nam mà còn là hoạt động văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc của nhiều nước trên thế giới.
Việt Nam được xác định là một trong tám cội nguồn của cây chè. Có điều kiện địa hình, đất đai, khí hậu phù hợp cho cây chè phát triển cho chất lượng cao. Hiện sản phẩm chè của Việt Nam đã có mặt trên 110 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đặc biệt thương hiệu “CheViet”đã được đăng ký và bảo hộ trên rất nhiều thị trường của các quốc gia trên thế giới và khu vực. Việt Nam hiện đang là quốc gia đứng thứ 5 trên thế giới về sản lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu chè.
Việt Nam là một trong những nước có lịch sử trồng chè lâu đời. Hiện nay cả nước có khoảng 120.000 ha chè, tuy nhiên năng suất, chất lượng chè của nước ta còn thấp so với các nước trên thế giới. Nhưng nhiều hộ trồng chè vùng trung du vẫn đạt 15-20 tấn/ha. Chè cho thu hoạch quanh năm kể cả những tháng khô hạn. Trên khắp vùng trồng chè trên cả nước ta thấy rắng những chỗ đất tốt, có độ dốc thích hợp đã được trồng chè, những diện tích quy hoạch trồng chè còn lại ở vùng trung du miền núi hầu hết là đất màu, mới phá bỏ cây trồng trước hoặc trồng lại 2 - 3 chu kỳ do vậy khi tiến hành trồng chè cần phải tiến hành cải tạo đất, áp dụng biện pháp kỹ thuật phù hợp để nâng cao hiệu quả kinh tế (Nguyễn Hữu Khải, 2005) [8].
Ở giai đoạn kinh doanh, đất trồng chè thường là đất dốc có hàm lượng dinh dưỡng nghèo và độ ẩm thấp. Do vậy cần phải bổ sung chất hữu cơ cho đồi chè bằng phân chuồng. Tuy nhiên biện pháp náy còn nhiều hạn chế, hàng năm sự bào mòn, rửa trôi lượng mùn dinh dưỡng khá cao. Sự thoái hóa đất là xu thế phổ biến đối với nhiều vùng, đặc biệt là vùng đồi núi.
Tỉnh Thái Nguyên là một điển hình của trung du miền núi phía Bắc. Thái Nguyên có nhiều dãy núi cao chạy dần theo hướng Bắc - Nam và thấp dần xuống phía Nam. Diện tích đất tự nhiên chủ yếu được hình thành do sự phong hóa trên đá Macma, đá biến chất và trầm tích. Cây chè là thế mạnh của vùng, chè được trồng chủ yếu trên các vùng đồi như Đại Từ, Võ Nhai, Tân Cương Tuy nhiên người làm chè mới chỉ chú trọng đến khai thác sản phẩm mà chưa chú ý đầu tư đúng mức. xuất phát tử yêu cầu sản suất nông nghiệp bền vững, hiểu được vai trò của lớp thực vật trong bảo vệ đất chống xói mòn, làm cho đất mầu mỡ hơn, kiểm soát cỏ dại, giữ ẩm, tăng năng suất cây trồng, tăng thu nhập cho người dân. Vì vậy, em thực hiện đề tài. “Nghiên cứu ảnh hưởng của một số vật liệu tủ gốc đến sinh trưởng và năng suất của giống chè TRI777 trong vụ Xuân năm 2012 tại xã La Bằng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. ”
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được loại và lượng vật liệu dùng tủ gốc tốt nhất cho chè.
- Đề xuất biện pháp kỹ thuật hợp lý nhằm nâng cao khả năng cho năng suất chè giống TRI777 tại xã La Bằng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Giúp cho sinh viên áp dụng những kiến thức khoa học đã được tích lũy trong quá trình học tập vào thực tiễn sản xuất. Bên cạnh đó, giúp cho sinh viên làm quen với những bước tiến hành nghiên cứu khoa học.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Từ kết quả theo dõi, thực hiện đề tài giúp chọn được vật liệu tủ tốt nhất cho chè giống TRI777 phù hợp với điều kiện khí hậu, thời tiết và đất đai của xã La Bằng và các vùng lân cận.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Chè giống TRI777 ở thời kỳ kinh doanh (5 năm tuổi)
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-Tủ gốc với các vật liệu tủ khác nhau cho chè TRI 777.
+ Công thức 1: Tủ rơm, rạ
+ Công thức 2: Tủ guột
+ Công thức 3: Tủ thân cây ngô
+ Công thức 4: Không tủ (Đ/c)
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Sản xuất chè vụ Đông Xuân là quá trình áp dụng các biện pháp kỹ thuật thích hợp nhằm tạo điều kiện cho cây chè sinh trưởng tốt trong cả vụ Đông Xuân, khi nhiệt độ xuống thấp, ít mưa. Nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện sinh thái đến sinh trưởng búp chè các nhà khoa học Trung Quốc và Việt Nam đều cho rằng nhiệt độ thích hợp của cây chè là 10oC, nghĩa là trong điều kiện nhiệt độ lớn hơn 10oC thì cây chè vẫn sinh trưởng búp. Mặt khác sản lượng chè búp hàng tháng có quan hệ rất chặt với lượng mưa, những tháng có mưa 100mm/tháng, sản lượng hàng tháng đạt > 10% tổng sản lượng cả năm. Như vậy trong các tháng vụ Đông Xuân ở vùng trung du phía Bắc nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất đều > 10oC thì yếu tố hạn chế năng suất chính là lượng mưa. Nếu tưới nước đủ ẩm cây sẽ sinh trưởng búp và cho thu hoạch đáng kể (Lê Tất Khương, 1997) [9].
Trên thực tế ở vùng trung du miền núi phía Bắc cho thấy sản lượng chè các tháng vụ Đông Xuân giảm mạnh, trong khi đó nhu cầu tiêu thụ chè tăng nhanh làm cho giá chè tăng mạnh có khi gấp 2 - 2,5 lần những tháng giữa vụ. Chi phí đầu vào để sản xuất chè vụ Đông Xuân không cao do chi phí bảo vệ thực vật và chi phí chế biến giảm. Mặt khác sản xuất chè vụ Đông Xuân sẽ rải vụ thu hoạch chè, rải vụ chế biến chè tạo việc làm cho người lao động vào các tháng Đông Xuân. Vì vậy sản xuất chè vụ Đông Xuân thường mang lại hiệu quả kinh tế cao.
1.2. Nguồn gốc và phân loại của cây chè
1.2.1.Nguồn gốc cây chè
Các công trình nghiên cứu và khảo sát trước đây cho rằng nguồn gốc của cây chè là vùng Vân Nam Trung Quốc, nơi có điều kiện khí hậu ẩm ướt quanh năm. Theo các tài liệu của Trung Quốc thì cách đây 4.000 năm người Trung Quốc đã biết dùng chè làm dược liệu sau đó mới dùng để uống.
Năm 1823, R.Bruce phát hiện những cây chè dại lá to ở vùng Atxam(Ấn Độ) từ đó các học giả người Anh cho rằng quê hương của cây chè là ở Ấn Độ chứ không phải ở Trung Quốc.
Những công trình nghiên cứu của Dejemukhatze (1961 - 1976) về phức Catechin giữa các loại chè được trồng và mọc hoang dại đã nêu lên luận điểm cho sự tiến hóa trên cơ sở đó xác minh nguồn gốc cây chè. Từ sự biến đổi sinh hóa của các lá cây chè mọc hoang dại và các cây chè được trồng trọt, chăm sóc. Dejemukhatze cho rằng, nguồn gốc của cây chè chính là ở Việt Nam.
Hiện nay chè được phân bố khá rộng trong những điều kiện tự nhiên rất khác nhau, từ 300 vĩ Nam đến 450 vĩ Bắc, là những nơi có điều kiện tự nhiên khác xa vùng nguyên sản. Những thành tựu khoa học của các nhà chọn giống Liên Xô,Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản đã tạo nhiều giống mới có khả năng thích ứng với các điều kiện khác nhau, tạo nhiều triển vọng cho nghề trồng chè trên thế giới (Nguyễn Văn Hùng, 2006) [7].
1.1.2. Phân loại cây chè
Tên khoa học của cây chè được thống nhất là Camellia sinensis (L) O.Kuntze và có tên đồng nghĩa là Thea sinensis L.
Việc phân loại chè dựa vào các cơ sở sau :
- Cơ quan sinh dưỡng: Loại thân bụi hoặc thân gỗ, hình dạng của tán, hình dạng và kích thước của lá, số đôi gân lá.
- Cơ quan sinh thực: Độ lớn của cánh hoa, số lượng đài hoa, vị trí phân nhánh của đầu nhụy cái.
- Đặc tính sinh hóa: Chủ yếu dựa vào hàm lượng tanin, mỗi giống chè có hàm lượng tanin biến đổi nhất định (Nguyễn Văn Hùng, 2006) [7].
Chè Camellia sinensis được chia làm 4 thứ:
* Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var.bohea)
Đặc điểm: Cây bụi, thân thấp, phân cành nhiều, lá nhỏ dày, nhiều gợn sóng màu xanh đậm. Lá dài 3,5 - 6,5 cm có 6 - 7 đôi gân lá không rõ, răng cưa nhỏ, không đều, búp nhỏ hoa nhiều, năng suất thấp, phẩm chất bình thường, khả năng chịu rét ở nhiệt độ (120C - 150C) phân bố chủ yếu ở miền Đông Nam Trung Quốc, Nhật Bản và một số vùng chè khác.
* Chè Trung Quốc lá to (Camellia sinensis var.marcophyla)
Đặc điểm: Thân gỗ nhỏ, cao 5m trong điều kiện sinh trưởng tự nhiên, lá to trung bình chiều dài 12-15cm, rộng 5-7 cm, màu xanh nhạt, bóng. Răng cưa sâu không đều,đầu lá nhọn, trung bình có 8-9 đôi gân lá rõ. Năng suất cao, phẩm chất tốt, nguyên sản ở Vân Nam, Tứ Xuyên (Trung Quốc).
* Chè Shan (Camellia sinensis var.Shan)
Đặc điểm: Thân gỗ cao 6-10m, lá to và dài 15-18cm, có màu xanh nhạt, đầu lá dài, răng cưa nhỏ và dày. Tôm chè nhiều lông tơ trắng mịn trông như tuyết nên thích ứng ở điều kiện ấm, ẩm, địa hình cao. Năng suất cao, phẩm chất tốt. Nguyên sản ở Vân Nam (Trung Quốc) miền Bắc Mianma và Việt Nam.
* Chè Ấn Độ (Camellia sinensis var atxamica)
Đặc điểm: Thân gỗ cao tới 17m, phân cành thưa, lá dài 20-30cm mỏng, mềm, thường có màu xanh đậm, dạng lá hình bầu dục có trung bình 12-15 đôi gân lá. Rất ít hoa quả, không chịu được rét hạn. Năng suất phẩm chất tốt. Trồng nhiều ở Ấn Độ, Mianma, Vân Nam (Trung Quốc) và một số vùng khác (Nguyễn Văn Hùng, 2006) [7].
1.3. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh của cây chè
1.3.1. Điều kiện đất đai, địa hình
- Độ chua: Là chỉ tiêu quan trọng quyết định đến đời sống cây chè. Các nhà khoa học Trung Quốc cho rằng: độ pH 7,5 cây chè ít lá, lá vàng, chết. Các nhà khoa học cũng xác định rằng giới hạn pH của đất trồng chè là 4,5 và giới hạn trên là 6,5.
- Tầng dày, kết cấu đất thành phần cơ giới và chế độ nước: Cây chè sinh trưởng tốt ở tầng dày ≥ 1m, giới hạn cuối cùng về đất trồng chè là 0,5m. Về thành phần cơ giới chè ưa các loại đất từ cát pha đến thịt nặng.
Thực tiễn cho thấy: Thái Nguyên có 6 loại đất có khả năng trồng chè, trong đó chè được trồng trên 2 loai đất: đất vàng nhạt trên đá cát, đất vàng nâu trên đá phù sa cổ có thành phần cơ giới nhẹ, đều có hương thơm tự nhiên vị đậm, màu nước đẹp hơn chè trồng trên các loại đất có thành phần cơ giới nặng hơn.
Cây chè sinh trưởng tốt trên đất có kết viên, tơi xốp. Trên các loại đất này bộ rễ chè phát triển tốt, hệ sinh vật hoạt động mạnh, cây chè có tuổi thọ cao.
Chè là cây cần nước, tuy nhiên không có khả năng chịu úng, chỉ nên trồng chè ở những nơi có mực nước ngấm ở dưới độ sâu 1m.
- Độ cao so với mực nước biển: của đất trồng chè có ảnh hưởng tới phẩm chất chè; chè trồng trên núi cao thường có chất lượng tốt.
1.3.2. Các yếu tố khí hậu đối với sự sinh trưởng của cây chè
- Lượng mưa và độ ẩm không khí. Hàm lượng nước trong rễ chè là 48-54.5%, trong thân cành là 48-75%, trong lá là 74-76%.
Lượng mưa trung bình hàng năm thích hợp cho sinh trưởng cây chè là 1500-2000mm.
Số ngày mưa có ảnh hưởng lớn đến việc hái chè cũng như chế biến chè: Khó làm héo, tốn nhiên liệu và công sấy chè.
Độ ẩm tương đối của không khí thích hợp là 80-85%. Ẩm độ cần thiết cho cây chè là 70-90%. Lượng mưa phân bố đều, xen kẽ ngày mưa, ngày nắng rất phù hợp cho cây chè sinh trưởng, phát triển. Lượng mưa tập trung phân bố không đều ảnh hưởng xấu tới sinh trưởng của cây chè, gây xói mòn đất trồng chè. Ẩm độ không khí thấp, chè cằn cỗi, búp chè chóng già, tỷ lệ mù xòe cao, sức chống chịu sâu bệnh giảm.
Các loại chè núi cao có chất lượng tốt vì độ ẩm cao và ánh sáng tán xạ và biên độ nhiệt ngày đêm lớn.
- Nhiệt độ: Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng cây chè là 22-280C. Theo các nhà khoa học Trung Quốc, Liên Xô thì cây chè ngừng sinh trưởng ở 100C, từ 15-180C cây chè sinh trưởng chậm, từ 22 đến 250C cây chè sinh trưởng mạnh, trên 300C cây chè sinh trưởng chậm lại, ở nhiệt độ 400C các bộ phận non của chè bị cháy.
Biên độ nhiệt ngày - đêm rộng có lợi cho chất lượng chè. Biên độ nhiệt độ các mùa thấp thì thời gian thu hoạch búp chè càng dài.
- Ánh sáng: ở giai đoạn cây con, cây chè ưa bóng râm. Cây chè trưởng thành ưa ánh sáng. Yêu cầu của cây chè với ánh sáng có khác nhau giữa các tuổi chè, giống chè. Chè con cần ánh sáng ít hơn chè lớn, các giống chè to cần ít ánh sáng hơn các giống chè lá nhỏ.
Dưới bóng râm cây chè sinh động, lóng dài, búp non lâu, hàm lượng nước cao nhưng búp thưa, quang hợp kém nên năng suất thấp.
Ánh sáng tán xạ ở vùng núi cao có tác dụng tốt đến phẩm chất chè. Sương mù nhiều ẩm ướt, nhiệt độ thấp ở vùng núi cao là nơi sản xuất chè có chất lượng cao.
Trồng cây bóng mát ở những vùng thấp và nắng nóng cho kết quả tốt. Vườn chè cơ cấu bóng mát che bớt 30% ánh sáng làm tăng năng suất chè lên 34%. Chúng ta có tập đoàn cây bộ đậu che bóng mát cho chè rất tốt. Đáng chú ý có cây muồng đen ở Tây Nguyên, cây chàm là nhọn ở các tỉnh phía Bắc. Cây bóng mát còn có tác dụng làm giàu chất hữu cơ, chống xói mòn cho đất trồng chè nâng cao mạch nước ngầm và chắn gió cho chè (Đường Hồng Dật, 2004) [5].
- Không khí: Sự lưu thông không khí, gió nhẹ và có mưa rất có lợi cho sinh trưởng của cây chè. Gió nhẹ làm cho CO2 phân bố đều, cố lợi cho quá trình quang hợp, gió nhẹ có tác dụng điều hòa nước trong cây. Để giảm tác hại của gió bão người ta tiến hành trồng các đai rừng chắn gió cho chè.
Qua cơ sở khoa học nêu trên và yêu cầu về điều kiện sinh thái của cây chè, thì tỉnh Thái Nguyên tương đối thích hợp cho sản xuất chè vụ Đông, thông qua các biện pháp tưới, tủ, làm đất giữ ẩm cho chè nhằm khắc phục yếu tố hạn chế lớn nhất đến cây chè vụ Đông là mưa ít, nhờ vậy mà cây chè sinh trưởng búp thuận lợi và cho thu hoạch sản lượng.
1.3.3. Nhu cầu dinh dưỡng đối với chè
* Nhu cầu phân đạm cho chè
Trong chè đạm tập trung ở các bộ phận còn non như búp và lá non, N tham gia vào sự hình thành axit amin và protein, bón đủ N cho chè, lá chè có màu xanh quang hợp tốt. cây chè sinh trưởng tốt, cho nhiều búp, búp to. Thiếu đạm chồi mọc ít, lá vàng, búp nhỏ, năng suất thấp.
Các thí nghiệm tại viện chè Phú Hộ cho thấy: Bón đạm làm tăng năng suất từ 2,0-2,5 lần so với đối chứng không bón
Về chất lượng: Các tài liệu Ấn Độ, Nhật Bản và Việt Nam đều cho rằng bón đạm không hợp lý (bón quá nhiều hoặc bón đơn độc) làm giảm chất lượng chè đặc biệt là sản xuất chè đen.
Bón quá nhiều đạm làm cho hàm lượng tanin, cafein giảm làm protein tăng, protein sẽ kết hợp với tanin thành hợp chất không tan vì thế lượng tanin càng bị giảm, hơn nữa bón quá nhiều đạm làm cho hàm lượng ancanoit tăng, chè có vị đắng
Các thí nghiệm còn cho thấy có thể làm giảm tác hại của việc dùng liều lượng đạm cao nếu bón phối hợp cân đối các phân khoáng khác và phân hữu cơ.
* Nhu cầu phân lân cho chè
Trong búp non của chè có 1,5% P2O5 (Eden 1958). Lân tham gia vào thành phần cấu tạo của tế bào, trong axit nucleic, lân có vai trò quan trọng trong việc tích lũy năng lượng cho cây, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của chè, nâng cao chất lượng chè (cả chè nguyên liệu và chè giống) làm tăng khả năng chống rét, chống hạn cho chè, thiếu lân lá chè có màu xanh thẫm, có vết nâu hại bên gân chính, búp nhỏ năng suất thấp.
Các tài liệu nghiên cứu của Liên Xô, Việt Nam và nhiều nước khác cho thấy: bón lân làm tăng năng suất chè rõ rệt, đặc biệt bón lân trên nền N,K, đất thiếu đạm và kali cũng làm giảm hiệu quả của phân lân đối với chè. Điều đáng chú ý là bón lân có hiệu quả tương đối dài thậm chí 20-25 năm.
Kết quả sơ bộ thì nghiệm 10 năm phân bón N P K cho chè của trại thí nghiệm chè Phú Hộ cho thấy trên cơ sở bón 100 kgN/ha, bón 50 Kg P2O5 trong từng năm không có chênh lệch đáng kể về năng suất. Nhưng từ năm thứ 7 trở đi thì bội thu tăng lên rõ rệt, qua 10 năm hiệu quả của phân lân tỏ ra rõ rệt và chắc chắn bình quân 10 năm thì hiệu quả của phân lân tỏ ra rõ rệt và chắc chắn bình quân 10 năm 1Kg P2O5 làm tăng được 3,5 Kg búp chè tươi.
Kết quả nghiên cứu của Curxnop(1954) và T.C mgalolisvili (1966) Liên xô đều khẳng định bón lân trên nền N-K làm tăng hàm lượng catechin trong búp chè, có lợi cho chất lượng chè (Đường Hồng Dật, 2004) [5].
* Bón Kali cho chè
Kali có trong tất cả các bộ phận của cây chè nhất là thân, cành và các bộ phận đang sinh trưởng. Nó tham gia vào quá trình trao đổi chất trong cây làm khả năng hoạt động của các men tăng, làm tăng khả năng tích luỹ gluxit và axit amin, tăng khả năng giữ nước của tế bào, nâng cao năng suất, chất lượng búp, làm tăng khả năng chống bệnh, chịu rét cho chè.
Thiếu kali rìa lá có vết nâu, rụng lá nhiều, búp nhỏ, lá nhỏ.
* Bón phân hữu cơ cho chè
Đối với chè phân hữu cơ có vai trò rất quan trọng, nó không những cung cấp trực tiếp chất dinh dưỡng cho cây mà còn cải thiện lí tính đất như: làm cho đất tơi xốp, có kết cấu viên làm tăng khả năng thấm và giữ nước của đất, làm tăng sự hoạt động của các hệ vi sinh vật trong đất, tăng thành phần các chất dinh dưỡng: N P K và các nguyên tố vi lượng khác trong đất (Đường Hồng Dật, 2004) [5].
1.4. Một số kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài
1.4.1. Một số nghiên cứu về cây chè trên thế giới
Các tác giả CFKozopkin (1950) G.V Lêbêdep (1954,1957) N.X Petino bằng nghiên cứu của mình đã cho thấy: vùng cận nhiệt đới chỉ có thể trồng chè khi tưới nước đều đặn, các tác giả cho rằng: Tưới nước cho chè làm tăng thời gian thu hoạch búp, làm tăng chất lượng chè nguyên liệu (Lê Tất Khương, 1997) [7].
M.K Daraselia (1989) tủ chè tưới làm thay đổi điều kiện quang hợp, thay đổi hoạt tính các men trong rễ chè, kể cả polifenon-oxy