Đề tài Nghiên cứu chọn giống, nhân giống và biện pháp kỹ thuật trồng thâm canh cây Sơn (Toxicodendron succedanea) tại Phú Thọ

Cây Sơn (Toxicodendron succedana) là một cây lấy nhựa quý và độc đáo ở Việt Nam, cây có nguồn gốc nhiệt đới, là cây công nghiệp lâu năm nhƣng thời gian thu hoạch tƣơng đối ngắn so với các cây công nghiệp khác nhƣ chè và cà phê. Cây Sơn đƣợc trồng ở nƣớc ta từ lâu đời, trƣớc năm 1945 những vùng Sơn tập trung chủ yếu với diện tích nhỏ ở các huyện thuộc tỉnh Phú Thọ. Cây Sơn là loài cây có tiềm năng và triển vọng phát triển trên đất vùng đồi trung du, miền núi. Hiện nay, Sơn là cây trồng có giá trị và hiệu quả cao so với các loại cây trồng dài ngày trên đất vùng đồi, đặc biệt là đất đồi thấp, có độ dốc vừa phải. Trồng cây Sơn vừa có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc khai thác đất trống, đồi núi trọc, góp phần thực hiện chiến lƣợc phát triển nông nghiệp bền vững, gắn với quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp - hiện đại hóa nông thôn. Trồng cây Sơn lấy nhựa cung cấp cho công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và khôi phục ngành nghề, làng nghề truyền thống, để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu đặc thù địa lý có lợi thế cạnh tranh cao, đặc biệt là phát huy những đặc tính và giá trị quý báu của nhựa sơn để duy trì và phát triển nghề sơn mài truyền thống độc đáo góp phần xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam. Đối với ngƣời dân trồng cây Sơn thì nhựa sơn là nguồn thu nhập chính, cây Sơn đƣợc xem là cây xóa đói giảm nghèo, cây giúp cho nông dân vƣơn lên làm giàu ngay trên mảnh đất quê hƣơng.

pdf58 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 522 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu chọn giống, nhân giống và biện pháp kỹ thuật trồng thâm canh cây Sơn (Toxicodendron succedanea) tại Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Cây Sơn (Toxicodendron succedana) là một cây lấy nhựa quý và độc đáo ở Việt Nam, cây có nguồn gốc nhiệt đới, là cây công nghiệp lâu năm nhƣng thời gian thu hoạch tƣơng đối ngắn so với các cây công nghiệp khác nhƣ chè và cà phê. Cây Sơn đƣợc trồng ở nƣớc ta từ lâu đời, trƣớc năm 1945 những vùng Sơn tập trung chủ yếu với diện tích nhỏ ở các huyện thuộc tỉnh Phú Thọ. Cây Sơn là loài cây có tiềm năng và triển vọng phát triển trên đất vùng đồi trung du, miền núi. Hiện nay, Sơn là cây trồng có giá trị và hiệu quả cao so với các loại cây trồng dài ngày trên đất vùng đồi, đặc biệt là đất đồi thấp, có độ dốc vừa phải. Trồng cây Sơn vừa có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc khai thác đất trống, đồi núi trọc, góp phần thực hiện chiến lƣợc phát triển nông nghiệp bền vững, gắn với quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp - hiện đại hóa nông thôn. Trồng cây Sơn lấy nhựa cung cấp cho công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và khôi phục ngành nghề, làng nghề truyền thống, để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu đặc thù địa lý có lợi thế cạnh tranh cao, đặc biệt là phát huy những đặc tính và giá trị quý báu của nhựa sơn để duy trì và phát triển nghề sơn mài truyền thống độc đáo góp phần xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam. Đối với ngƣời dân trồng cây Sơn thì nhựa sơn là nguồn thu nhập chính, cây Sơn đƣợc xem là cây xóa đói giảm nghèo, cây giúp cho nông dân vƣơn lên làm giàu ngay trên mảnh đất quê hƣơng. Cây Sơn thuộc nhóm gỗ nhỏ, cao tới 10m, lá mang 7-15 lá chét không lông, hình bầu dục thon, dài 5-10 cm, rộng 1,5-3,5 cm, gốc không gân, mặt dƣới tái; chùy hoa ngắn hơn lá; cánh hoa 5, dài bằng 2-3 lần đài, nhị 5 có chỉ nhị dài bằng cánh; quả hạch cứng, dẹp, màu vàng nhạt, đƣờng kính 6-8 mm. Ở Việt Nam từ trƣớc đến nay cây Sơn xuất hiện nhiều ở Phú Thọ, thực tế ngƣời trồng Sơn nói chung và ở Phú Thọ nói riêng chủ yếu sản xuất theo kinh nghiệm "cha truyền con nối" ngƣời sau học ngƣời trƣớc. Hiện chƣa có qui trình kỹ thuật nào, và cũng chƣa có nghiên cứu nào đi sâu để khuyến cáo và chuyển giao kỹ thuật cho nông dân nhất là khâu tuyển chọn giống, biện pháp nhân giống, liều lƣợng, kỹ thuật bón phân, mật độ, thời vụ trồng , cùng với xây dựng các biện pháp canh tác phù hợp để nâng cao hiệu quả của việc trồng Sơn. Các nghiên cứu về cây Sơn còn tách rời khâu chọn giống và kỹ thuật trồng thâm canh nên năng suất còn thấp. Chính vì vậy, diện tích trồng Sơn chƣa đƣợc mở rộng, năng suất nhựa chƣa cao, chất lƣợng nhựa sơn không đồng đều giữa các vùng và giữa các hộ gia đình trồng Sơn làm cho hiệu quả sản xuất của cây Sơn giảm, nhựa Sơn chƣa thực sự trở thành hàng hóa. Giải quyết đƣợc những hạn chế về mặt kỹ thuật này sẽ là tiền đề để phát triển nghề trồng Sơn trong nƣớc nói chung và ở Phú Thọ nói riêng, cũng nhƣ mở rộng đƣợc vùng Sơn trở thành vùng sản xuất hàng hóa có lợi thế cạnh tranh cao của đối tƣợng cây trồng có đặc thù địa lý này ở Phú Thọ, góp phần giải quyết công 2 ăn việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống cho ngƣời dân làm nghề rừng. Với những lý do đó, đề tài: "Nghiên cứu chọn giống, nhân giống và biện pháp kỹ thuật trồng thâm canh cây Sơn (Toxicodendron succedanea) tại Phú Thọ” đặt ra là cần thiết để đƣa ra đƣợc kỹ thuật chọn giống, nhân giống và gây trồng hợp lý làm tài liệu cho công tác chỉ đạo, khuyến cáo, hƣớng dẫn kỹ thuật giúp nông dân mở rộng và phát triển sản xuất cây Sơn đạt hiệu quả cao. Việc thực hiện đề tài sẽ góp phần giải quyết các vấn đề quan trọng nhƣ: - Kỹ thuật chọn giống cây Sơn có năng suất nhựa cao. - Kỹ thuật nhân giống cây Sơn - Kỹ thuật trồng thâm canh cây Sơn để cho năng suất nhựa cao. - Tạo cơ sở khoa học để phát triển trồng cây Sơn tại địa phƣơng, giúp các hộ gia đình trồng Sơn nâng cao thu nhập, từ đó góp phần khôi phục các làng nghề truyền thống và tạo thành vùng hàng hóa thị trƣờng nhựa Sơn phục vụ trong nƣớc và xuất khẩu. 3 II. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI 2.1 Mục tiêu tổng quát: Phát triển cây Sơn cho năng suất và chất lƣợng nhựa cao góp phần cải thiện thu nhập ngƣời dân làm nghề rừng tại Phú Thọ. 2.2 Mục tiêu cụ thể: - Chọn lọc đƣợc ít nhất 30 cây trội có năng suất nhựa cao - Xác định đƣợc các biện pháp nhân giống và kỹ thuật thâm canh cây Sơn thích hợp - Xây dựng đƣợc mô hình thử nghiệm canh tác cây Sơn. III. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC 3.1. Trên thế giới Trên thế giới đã có một vài nghiên cứu về cây Sơn, các nghiên cứu chủ yếu tập trung ở các lĩnh vực sau : + Phân loại, tên gọi và đặc điểm hình thái Trên thế giới có rất nhiều tên khoa học khác nhau đƣợc sử dụng để gọi tên cây Sơn (Rhus succedanea L.): Rhus acuminata DC, Rhus succedanea var. acuminata (DC.) Hook. f, Rhus succedanea var. himalaica Hook. f., Rhus succedanea var. sikkimensis Hook. f., Toxicodendron succedanea (L.) Moldenke, Toxicodendron succedaneum (L.) Kuntze [33]. Ngoài ra ở mỗi nƣớc cây lại có những tên gọi khác nhau: Crab’s claw, japan wax tree, red lac sumach, wild varnish tree (Anh), sumac faux – vernis, sumac vénéneux, arbre à laque, laquer (Pháp) (dẫn theo [24]. Ở Lào cây còn có tên địa phƣơng là Mai Ketlin, Mai Ben Hok, Mia Ben Phai [31]. Sơn là cây gỗ nhỏ có thể cao tới 8m, lá chét 9-15 (chủ yếu là 11) mọc đối nhau với 1 lá ở phần cuối cùng, lá chét dài 4-10 cm, rộng 2-3 cm có màu xanh tƣơi nhƣng vào mùa thu chúng chuyển sang màu đỏ tƣơi, đỏ thẫm trƣớc khi rụng. Hoa nhỏ màu trắng mịn xuất hiện cùng với lá non vào mùa xuân hoặc đầu hè, quả chín có màu nâu nhạt và rủ xuống trong mùa thu và mùa đông. Cây Sơn có thể sinh trƣởng tốt trên hầu hết các loại đất có độ dinh dƣỡng trung bình, hạt sơn có thể đƣợc phân tán nhờ chim [34]. Ở Lào, Sơn đƣợc mô tả là cây gỗ lớn có thể cao tới 40m, đƣờng kính có thể đạt tới 1m, cây rụng lá trong suốt mùa khô, sinh trƣởng chậm, là cây hiếm thấy và mọc rải rác trong những điều kiện khác nhau và loại rừng khác nhau. Đôi khi cũng tìm thấy Sơn mọc ở rừng rụng lá cùng với cây Pter ocar pus macrocar pus, hoa nở tháng 4-5, quả chín tháng 8 - 9 [31]. + Đặc điểm sinh lý, sinh thái và phân bố: Nghiên cứu của Pierre Domart [36] đã giải phẫu vỏ và thân cây Sơn cho thấy chiều dày vỏ ở cây Sơn 4 tuổi từ 2,5-2,8 mm; ở cây 8 tuổi chiều dày vỏ từ 5-6mm, 4 và mặt cắt ngang từ ngoài vào có 4 loại mô bì và tiết diện ống nhựa to nhỏ không đều gắn với nhau nhƣ mạng lƣới. Cũng theo nghiên cứu của Pierre Domart [36] khi nghiên cứu giải phẫu quả và hạt Sơn cho thấy 100g cành có quả có 53,3g hạt, 100 hạt nặng 6,25 g; 1kg hạt có từ 12.000 -15000 hạt, vỏ có 3 lớp, hạt có ống tiết nhựa nên đốt rất cháy. Nghiên cứu ở Lào cho thấy cây Sơn có biên độ phân bố rộng có thể sống ở độ cao 400-1000m, lƣợng mƣa 1500mm với mùa khô kéo dài đến 6 tháng, là cây có thể chịu đựng đƣợc sƣơng giá nhƣng ƣa những nơi ấm. Cây Sơn sinh trƣởng tốt trên đất khô, nhiều mùn và đất đá ong đỏ nhƣng thƣờng thấy trên đất đá vôi phong hóa. Cũng có thể tìm thấy cây Sơn xuất hiện dọc theo các con sông, suối ở các vùng đồi núi [31]. + Giá trị sử dụng: Các nghiên cứu trên thế giới tập trung chủ yếu về giá trị sử dụng của cây Sơn, vỏ quả cây Sơn chứa chất “sáp”, chất này chiếm 45-50% thịt quả và không thực sự là sáp, có nhiệt độ nóng chảy ở 50-54 0 c, tỷ trọng ở 15 0 c là 0,975-1,000, chỉ số acid 6-20, chỉ số xà phòng 209-27, chỉ số iod từ 5-17, các chất không xà phòng hóa 0,5-1,7%; các acid béo là acid palmitic 77%, stearic 5%, dibasic 6%, oleic 12%, acid linoleic vết; ngoài ra còn có acid dibasic HOOC-(CH2)n-COOH, acid elagic. Nhân chiếm 39,5% chứa các chất với đặc điểm D15 0,9257, nD 20 1,471, chỉ số acid 1,4, chỉ số xà phòng 191,8, chỉ số iod 119,2, chất không xà phòng hóa 1,8%. Dầu béo gồm các glycerid của acid palmitic 25,4%, acid oleic 46,8% và acid linoleic 27,8% (The Wealth of India IX, 1972). Trong quá trình hạt chín, hàm lƣợng acid palmitic và acid stearic tăng lên và ổn định, trái lại acid linoleic và linolenic lại giảm đi (Xu Jinsen và cộng sự, 1990; CA. 113, 74.899y) (dẫn theo [24]). Sơn cho nhựa mủ, trong đó lacol 75-85% và lacase, lacol chịu ảnh hƣởng của men lacase nên dễ bị oxi hóa ngoài không khí thành chất đen bóng, bền vững (Georges Brooks, 1934) (dẫn theo [24]). Lá và quả Sơn chứa tinh dầu, lá chứa tanin 20%, corilagin, acid shikimic, rhoifolin, apigenin-7-rhamnoglucosid (The Wealth of India IX, 1972). Ngoài ra còn có các biflavanoid, robustaflavon, hinokiflavon, amentoflavon, agathisflavon, volaensiflavon, moreloflavon rhusflavanon, sucedaneaflavon, moreloflavon, GB- 1a và GB-2a, các biflavanoid đều có tính kháng virus (Lin YuK Meei và cộng sự 1995) (dẫn theo 24]). Tính chất hóa học của màng Sơn đã đƣợc các nhà khoa học Nhật Hirano Bertrand và Georges Brooks Pháp [37] nghiên cứu cho thấy có tính cách nhiệt và cách điện rất tốt, chịu đƣợc đến 410 0 c; chống chịu tốt đối với các vi sinh vật, độ uốn dẻo cao và chịu đƣợc nƣớc biển. 5 Ở Trung Quốc rễ và lá cây đƣợc dùng làm thuốc thanh nhiệt, giải độc, tán ứ sinh cơ và chỉ huyết để dùng uống trong trị hen khan (háo suyễn), cảm, viêm gan mãn tính, đau dạ dày, đòn ngã tổn thƣơng và dùng ngoài trị gãy xƣơng và các vết thƣơng chảy máu. Ở Ấn Độ ngƣời ta dùng quả trị bệnh lao, phổi (dẫn theo [5], [4]). + Nghiên cứu về chọn giống, nhân giống và biện pháp trồng rừng thâm canh: Cải thiện giống là một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất nhằm nâng cao năng suất, chất lƣợng rừng trồng, đây là một lĩnh vực nghiên cứu mang tính đột phá, là cơ sở quan trọng quyết định tới sự thành công của công tác trồng rừng. Trên thế giới công tác chọn giống và cải thiện giống đƣợc quan tâm từ rất sớm và đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể, tuy nhiên các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các loài cây mọc nhanh, chƣa có nghiên cứu nào về kỹ thuật chọn giống cây Sơn. Các biện pháp kỹ thuật thâm canh rừng nhƣ kỹ thuật bón phân, làm đất, phƣơng thức trồng và mật độ trồng... cũng đã đƣợc các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu từ rất sớm để cải thiện năng suất và chất lƣợng rừng trồng. Tuy nhiên các nghiên cứu cũng chỉ tập trung chủ yếu cho các cây rừng mọc nhanh nhƣ Keo, Bạch đàn và các cây bản địa khác nhƣ Thông, Trám,... chƣa có nghiên cứu nào về kỹ thuật trồng thâm canh cây Sơn. Điển hình nhƣ một số công trình nghiên cứu của Mello (1976) ở Brazil cho thấy Bạch đàn (Eucalyptus); công trình nghiên cứu của Schonau (1985) [35] ở Nam Phi về vấn đề bón phân cho Bạch đàn Eucalyptus grandis; nghiên cứu bón phân cho rừng Thông P. caribeae ở Cu ba, Herrero và cộng sự (1988) [34] Tóm lại đã có một vài tác giả trên thế giới nghiên cứu về cây Sơn, tuy nhiên các nghiên cứu chỉ tập trung và phân loại, nguồn gốc, xuất xứ và công dụng của cây Sơn mà chƣa chú trọng đến các kỹ thuật chọn giống và trồng thâm canh cây Sơn. 3.2. Ở Việt Nam Ở trong nƣớc, cũng đã có khá nhiều các nghiên cứu về cây Sơn tập trung ở các lĩnh vực sau: + Phân loại, tên gọi và đặc điểm hình thái Hiện nay ở nƣớc ta có khá nhiều tên gọi khác nhau để chỉ cây Sơn Toxicodendron succedana (L.) Mold, theo Phạm Hoàng Hộ [14] thì cây Sơn Toxicodendron succedana (L.) Mold còn có tên đồng nghĩa khác là (Rhus succedana L.), tên Việt Nam gọi là Sơn ta, Sơn Phú Thọ, Sơn lắc, Cau tất, Hoàng Lô và theo tài liệu của dự án "Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam" [25] cây Sơn còn có tên là Sơn dầu, theo Trần Hợp [16] gọi là cây Sơn rừng hoặc Sơn ta (Võ Văn Chi và Trần Hợp [5], Võ Văn Chi [4]). Trần Hợp [16] đã mô tả cây Sơn Rhus 6 verniciflua Stokes là một loài khác với Toxicodendron succedana (L.) trong họ đào lộn hột, tuy nhiên theo Phạm Hoàng Hộ [14] thì 2 loài cây này là một. Tài liệu 1900 loài cây có ích ở Việt Nam [26] cũng ghi nhận cây Sơn Toxicodendron succedana (L.) Moldenke còn có tên khác là Rhus succedannea L., Mant là cây có nhựa mủ dùng làm sơn, thƣờng mọc hoang và trồng ở savan, vùng đồi miền Bắc Việt Nam. Trên thị trƣờng thế giới, cây Sơn có tên thƣơng phẩm là: Japnese wax tree, wax tree, red lac sumach, laquer wax tree [25]. Chi Sơn (Toxicodendron Mill) có quan hệ họ hàng gần gũi với chi Muối (Rhus L.) trong họ Xoài (Anacardiaceae), tuy nhiên chúng cũng có những đặc điểm khác nhau rất rõ về hình thái nhƣ quả ở các loài trong chi Sơn thƣờng nhẵn, hạt phấn nhỏ và nhựa có độc tính cao. Ở nƣớc ta, chi Sơn có 2 loài là Sơn (Toxicodendron succedana) và Sơn thái(Toxicodendron rhetsoides (Craib) Tardien). Loài Sơn (Toxicodendron succedana) khá đa dạng, căn cứ vào đặc điểm hình thái lá ngƣời trồng Sơn thƣờng chia làm 2 giống: Giống Sơn lá si có lá nhỏ, màu xanh lục, cây cho ít nhựa nhƣng có chất lƣợng tốt, nhựa chảy đều và thời gian cho nhựa dài; Sơn lá trám có lá to, màu xanh nhạt, cho nhựa nhiều hơn so với Sơn lá si [25]. Theo Trần Hợp[16] thì cây Sơn Toxicodendron succedana (L.) Moladenke là cây gỗ trung bình có thể cao đến 20m, thân tròn thẳng, phân cành cao. Trong gây trồng cây chỉ cao 3-8 m, thân cong queo, phân cành nhiều, vỏ màu nâu xám đen, có nhựa mủ màu trắng ngà, để lâu chuyển sang màu đen. Lá Kép lông chim 1 lần lẻ, mọc cách, thƣờng tập trung ở đầu cành, dài 5-10 cm, rộng 1,5-3,5 cm, cuống chung mềm dài 10-20 cm, mang 7-13 lá phụ. Lá phụ mọc đối hình bầu dục hoặc hình trứng nhọn dần về phía đầu, gốc lá tù và lệch, mép lá nguyên, mặt trên nhẵn bóng, màu lục xẫm, mặt dƣới màu lục nhạt hoặc lục xám. Hoa nhỏ tập hợp thành truỳ ở nách lá phía đầu cành, cụm hoa đực phân nhánh nhiều, hoa có cuống nhỏ và ngắn, cánh đài hợp ở gốc, trên xẻ thành răng hình trứng hoặc trái xoan, dài dƣới 2mm, đầu tù hoặc gần tròn; Nhị đực 5 chiếc, chỉ nhị mảnh, bao phấn hình trứng, dài bằng cánh hoa. Quả hạch hơi méo, đƣờng kính 6-8 mm, vỏ quả mỏng, nhẵn, khi khô màu đen, hạt cứng. Khi nghiên cứu về hình thái cây Sơn, Đỗ Ngọc Quỹ [19] xác định cây Sơn thuộc nhóm cây gỗ nhỏ, mọc tự nhiên, cao 5- 8m. Cây cao 2-3 m bắt đầu cho thu hoạch nhựa, cây có dạng thân tròn thẳng đứng, mặt cắt ngang tròn không đều, dƣới gốc to (đƣờng kính 6- 9 cm) chu vi thân chính phần gốc 20- 28 cm, lên ngọn nhỏ dần. Thân cây phân nhánh liên tục, thành một hệ thống cành và chồi, có vòm lá đều, thƣa hình tán cành ngang phân bố không đều trên thân, có chỗ mọc xít nhau nhƣ cây bàng, theo kiểu phân cành một trụ nhiều tầng. Theo Võ Văn Chi và Trần Hợp 5], Võ Văn Chi [4] thì cây Sơn Toxicodendron succedana (L.) là cây gỗ nhỡ hay nhỏ, cao tới 10m, lá mang 7-15 7 lá chét không lông, hình bầu dục thon, dài 5-10 cm, rộng 1,5-3,5 cm, gốc không gân, mặt dƣới tái; Chùy hoa ngắn hơn lá; cánh hoa 5, dài bằng 2-3 lần đài, nhị 5 có chỉ nhị dài bằng cánh; Quả hạch cứng, dẹp, màu vàng nhạt, đƣờng kính 6-8 mm. Theo Trần Hợp (2002) [16] thì trong họ đào lộn hột (Anacardiaceae) cũng có một số cây có tên tiếng Việt là cây Sơn nhƣ Sơn quả to (Gluta megalocarpa Evrard.): là cây gỗ thƣờng xanh cao 15-20 m, đƣờng kính 20-40 cm gốc có bạnh khá lớn chủ yếu mọc ở vùng Nam Trung Bộ nơi đồi núi thấp dƣới 300m, gỗ tốt có giác lõi phân biệt đƣợc dùng dùng trong xây dựng, đồ dùng cao cấp, đồ mỹ nghệ; Cây Sơn nƣớc (Gluta velutina BL.) là cây gỗ nhỏ, phân cành thấp và có nhiều nhựa mủ, ở nƣớc ta cây mọc rọc theo bờ kênh rạch, vùng gần biển, nƣớc lợ từ Đồng Nai đến Bà Rịa – Vũng Tàu; cây Sơn quả (Gluta wrayi King) là cây gỗ trung bình, vỏ thân màu xám, nứt dọc, nhẵn với nhiều lỗ bì màu trắng, rõ, cành nhẵn, cong queo mang lá ở đỉnh, mọc trong rừng ở độ cao 400-500 m ở các tỉnh Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, gỗ đƣợc sử dụng để đóng đồ gia đình, vỏ có nhựa độc; Ngoài ra còn có cây Sơn huyết (Melanorrhea laccifera Pierre) cũng cho nhựa mủ dùng trong kỹ nghệ sơn mài, gắn gỗ nhƣng là cây gỗ lớn cao 20-30m, đƣờng kính 30 – 50 cm và phân bố từ các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng trở vào. Phạm Hoàng Hộ [15] trong tài liệu Cây cỏ Việt Nam – Quyển 3 cũng mô tả nhiều loài cây cùng có tên Sơn nhƣ: Sơn biên, Sơn cam, sơn cóc, Sơn đôn, Sơn linh, Sơn cúc, Sơn đậu, Sơn địch, Sơn ngƣu, Sơn liểu, Sơn linh, Sơn nữ, Sơn quỳ, Sơn tam nại, Sơn tần, Sơn tra, Sơn trà, Sơn trâm, Sơn vé, Nhƣ vậy, cây Sơn (Toxicodendron succedana) ở nƣớc ta đã đƣợc tập trung mô tả khá rõ ràng, đây là cơ sở quan trọng để phân biệt cây Sơn với các loài khác cùng họ, cùng chi và trùng tên với nó + Đặc điểm sinh lý, sinh thái và phân bố Ở Việt nam, cây Sơn là loài có biên độ sinh thái rộng, trong tự nhiên có thể gặp Sơn mọc rải rác trong rừng thƣa ở độ cao dƣới 1500 m. Cây ƣa khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ trung bình khoảng 20-30 0 C là thích hợp nhất cho sinh trƣởng của cây, song Sơn cũng có thể chịu đƣợc nhiệt độ nóng tới 38-39 0 C, lạnh tới 4-5 0 C, cây sinh trƣởng chậm và rụng lá về mùa đông. Sơn là cây ƣa sáng, sinh trƣởng nơi quang đãng, đƣợc chiếu sáng đầy đủ thì cành lá mới phát triển tốt, vỏ dày và cho nhiều nhựa mủ; Nắng còn làm tăng phẩm chất nhựa sơn, chích nhựa vào ngày nắng ráo thì nhựa sơn đỏ, đẹp và có nhiều dầu. Sơn là cây ƣa ẩm, tại các khu vực trồng Sơn truyền thống ở Phú Thọ, lƣợng mƣa trung bình hàng năm thƣờng đạt khoảng 2.000 mm, cây sinh trƣởng tốt và cho nhiều nhựa vào các tháng có mƣa, độ ẩm không khí cao và nắng nhiều, cây chịu đƣợc hạn nhƣng không chịu đƣợc ngập úng. Cây sinh trƣởng phát triển khá nhanh, cây 28-30 tháng tuổi đã đạt chiều cao khoảng 2m, bắt đầu ra hoa, kết quả và cho thu hoạch nhựa. Mùa ra hoa tháng 8 3-4, mùa quả tháng 8-9; khi cây ra hoa, mang quả thƣờng ít nhựa, hoa càng nhiều thì nhựa càng ít. Do bộ rễ ăn nông nên cây thƣờng bị đổ do gió to hoặc bão [25]. Theo kết quả nghiên cứu của Đỗ Ngọc Dũng cây Sơn rất cần nƣớc, nên khi gặp những đợt nắng nóng kéo dài thƣờng ít nhựa, lá bị vàng. Tuy ƣa nƣớc nhƣng cây Sơn lại không chịu đƣợc úng ngập, do đó cây Sơn chỉ trồng đƣợc ở những nơi có độ dốc thoát nƣớc tốt, nếu trồng ở những nơi trũng thấp đọng nƣớc làm úa lá, kém nhựa. Theo Trần Hợp [16] thì Sơn là cây ƣa sáng, mọc nhanh, thích hợp với đất feralit đỏ vàng còn tốt, thoát nƣớc. Tái sinh tự nhiên bằng hạt và khả năng đâm trồi mạnh, mùa ra hoa tháng 2 - 4, mùa quả tháng 9 - 11. Võ Văn Chi và Trần Hợp [5], Võ Văn Chi [4] cho biết trong thiên nhiên Sơn mọc rải rác trong các rừng mƣa mùa nhiệt đới thứ sinh hoặc trong các trảng cây bụi, là cây ƣa sáng, lớn nhanh thích hợp với đất feralit đỏ vàng còn tốt, thoát nƣớc. không chịu đƣợc gió, giá rét, sƣơng muối, khả năng đâm trồi mạnh, ra hoa tháng 4, kết quả tháng 11. Theo Lê Mộng Chân [3] thì Sơn ta là cây mọc nhanh, mùa hoa tháng 3-4, mùa quả tháng 6-8, cây ƣa sáng, thƣờng là một trong những loài cây tiên phong ở rừng phục hồi. chịu đƣợc điều kiện đất chua và khô hạn, có phân bố rộng từ Bắc đến Nam. Theo Phạm Hoàng Hộ thì cây Sơn có phân bố ở rừng tự nhiên và đƣợc trồng đến độ cao 1.500 m ở Bắc Tây Nguyên, khu III, khu IV, khu V [14]. Ở Việt Nam, cây thƣờng đƣợc gây trồng nhƣng cũng thấy mọc rải rác trong các rừng mƣa mùa nhiệt đới thứ sinh hoặc trong các trảng cây bụi ở hầu khắp các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ nƣớc ta [16]. Về phân bố: cây có phân bố khá rộng ở các nƣớc Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Nhật Bản (Trần Hợp [16], Võ Văn Chi và Trần Hợp [5], Võ Văn Chi [4]). Ở nƣớc ta cây có phân bố từ các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Kạn, Bắc Giang, Phú Thọ, Hòa Bình, Hà Tây, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Trị, Đà Nẵng, Kon Tum, Đăk Lắk, Lâm Đồng [25]. Theo Võ Văn Chi và Trần Hợp thì ở nƣớc ta cây mọc hoang từ Hòa Bình, Quảng Ninh vào đến tận Lâm Đồng, cây cũng đƣợc trồng nhiều ở Phú Thọ, trên các đồi ở Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Thái, Hòa Bình để lấy gỗ và Sơn [5], [4]. Hiện đang tồn tại 2 quần thể Sơn mọc hoang dại và đƣợc trồng tập trung ở nhiều vùng trung du Phú Thọ, ít hơn ở Tuyên Quang và Hà Tây [24]. + Giá trị sử dụng Trong thân lá, cuống lá đều chứa nhựa mủ, nhựa mủ sơn sau khi thu về chứa khoảng 44-45% urushiol (chất dầu sơn), 16-18% gôm (chất nhựa), 23-26% nƣớc và 12-1
Luận văn liên quan