Đề tài Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học và đề xuất những kĩ thuật ban đầu để gây trồng loài Hoàng Liên ô rô (Mahonia nepanensis DC ) tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên

1. Mục tiêu của ý tưởng - Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học và phân bố loài Hoàng Liên ô rô tai khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên. - Từ kết quả nghiên cứu làm cơ sở dữ liệu tổng hợp và hệ thống về các đặc điểm sinh vật học và kỹ thuật nhân giống vô tính loài Hoàng liên ô rô phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo về loài.

doc26 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2532 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học và đề xuất những kĩ thuật ban đầu để gây trồng loài Hoàng Liên ô rô (Mahonia nepanensis DC ) tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tên ý tưởng “ Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học và đề xuất những kĩ thuật ban đầu để gây trồng loài Hoàng Liên ô rô (Mahonia nepanensis DC ) tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên “ Mục tiêu của ý tưởng Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học và phân bố loài Hoàng Liên ô rô tai khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên. Từ kết quả nghiên cứu làm cơ sở dữ liệu tổng hợp và hệ thống về các đặc điểm sinh vật học và kỹ thuật nhân giống vô tính loài Hoàng liên ô rô phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo về loài. Tổng quan nghiên cứu 3.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 3.1.1. Phân loại và phân bố chi Mahonia trên thế giới -Phân loại: Hoàng liên ô rô (HLOR) – còn gọi là cây Mật gấu, Mã hồ, Hoàng bá gai, Thích hoàng bá, Thập đại công lao... có tên khoa học là Mahonia nepalensis DC. thuộc họ Hoàng liên gai (Berberidaceae), bộ Mao lương (Ranunculales). Theo Ying Junsheng (2001), họ Hoàng liên gai (Berberidaceae) có 17 chi và khoảng 650 loài, chủ yếu phân bố ở vùng ôn đới phía Bắc và vùng miền núi á nhiệt đới. Riêng ở Trung Quốc, có tới 11 chi và 303 loài. Chi Mahonia có gần 60 loài, phân bố ở Đông Á và Đông Nam Á, phía Tây của Bắc Mỹ, vùng Trung Mỹ, và phía Tây của Nam Mỹ. - Phân bố của chi Mahonia và loài HLOR Chi Mahonia bao gồm khoảng 60 loài cây bụi, gỗ nhỏ thường xanh. Chi này có quan hệ chặt chẽ với chi Berberis. Chính vì vậy, nhiều nhà thực vật học không tán thành việc chấp nhận tên chi Mahonia nên đã xếp chi Mahonia vào cùng với chi Berberis vì một số loài thuộc hai chi này có thể lai giống với nhau. Tuy nhiên, chi Mahonia có lá kép lông chim lớn dài từ 10-50 cm, với từ 5-15 lá chét và hoa mọc thành các cành (dài từ 5-20 cm). Tên chi Mahonia được đặt theo Bernard McMahon (1775-1818), một người làm vườn ở Philadelphia, Hoa Kỳ. Phân bố HLOR ở một số quốc gia châu Á: + Trung Quốc: Theo Ying Junsheng (2001), ở Trung Quốc có tới 31 loài thuộc chi Mahonia, trong đó loài HLOR (M. nepalensis DC.) xuất hiện ở trong rừng rậm, bìa rừng hoặc trong các bụi cây ở độ cao từ 1200-3000 m. Phân bố ở tỉnh Hồ Nam, Nam Tứ Xuyên, Đông Tây Tạng và tỉnh Vân Nam. + Bhutan: Theo Chhetri (1989), ở Bhutan, M. nepalensis DC. phân bố ở độ cao 1500-2400m, gần những dòng suối nhỏ, dưới những cây bụi khác. Thời kỳ ra hoa từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. + Ấn Độ và Nepal: Phân bố ở những khu vực núi cao trên 1500m. + Những nơi khác: M. nepalensis DC. là cây cho hoa màu vàng, mọc thành cành khá đẹp nên được gây trồng làm cảnh ở nhiều nơi. Mặc dù loài cây này chỉ có phân bố tự nhiên ở một số nước Châu Á (Trung Quốc, Nê-pan, Việt Nam) nhưng nó đã được gây trồng ở nhiều nơi khác ở Đông Nam Á (Indonesia, Malaysia và Myanmar), Sri-Lanka và một số nước ngoài châu Á như Úc và miền Nam Châu Âu. Thực tế đã cho thấy, việc cung cấp thực vật cho dược phẩm truyền thống không thỏa mãn được nhu cầu (Cunningham, 1993). Do vậy, một giải pháp thay thế thích hợp nhất cho những vấn đề mà ngành công nghiệp dược đang phải đối mặt đó là phát triển hệ thống nuôi In Vitro nhằm đáp ứng nhu cầu về dược thảo và các chất tiết của nó (Nalawade et al, 2004). Cùng với sự phát triển của công nghê sinh học, việc nhân giống các loài cây dược liệu bằng phương pháp In Vitro đã được nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan,... tiến hành và đã đem lại kết quả đáng khích lệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng của việc sản xuất dược liệu (Arora, 1989). Trong tương lai, để phục vụ cho mục đích sức khỏe con người và sự phát triển của xã hội, nhằm chống lại các bệnh nan y thì cần thiết có sự kết hợp giữa Đông và Tây y, giữa y học hiện đại và kinh nghiệm cổ truyền dân tộc. Vì vậy, việc khai thác kết hợp với bảo tồn các lại cây thuốc là điều hết sức cần thiết. 3.1.2. Việc sử dụng loài cây HLOR làm thuốc HLOR là cây dược liệu dùng để chữa bệnh. Tác dụng trị bệnh đã được ghi trong bộ sách Thần nông bản thảo của Trung Quốc như một loại thuốc được xếp vào hàng thương phẩm. Ở Trung Quốc, người ta cũng dùng lá, thân và quả của một loài tương tự có tên khoa học là Mahonia bealei (Fort) Carr. gọi là Khoát diệp thập đại công lao hay Thổ hoàng bá để làm thuốc chữa bệnh (Xiuhong Ji et al., 2000). Các bộ tộc Khasi và Garo của Meghalaya (Ấn Độ) đã sử dụng vỏ cây tươi của HLOR ép lấy dịch, rồi pha loãng với nước, dùng như thuốc nhỏ mắt cho nhiều bệnh mắt khác nhau (Rao, 1981). Người dân địa phương còn thường dùng chữa lỵ, ăn uống không tiêu, vàng da, đau mắt. Bộ phận thường được sử dụng nhiều là vỏ cây (Laloo R. C. et al. 2006). Balami (2006) đã nghiên cứu và tìm hiểu 119 loài thực vật được sử dụng làm thuốc của người Newar thuộc làng Pharping huyện Kathmandu (Nê-pan). Trong đó, quả và vỏ loài cây Mahonia nepaulensis có thể chế thành dạng nước ép để chữa bệnh đi ngoài và bệnh lỵ. Ngoài ra còn có hai loài cây khác cùng họ Berberidaceae là Berberis aristata DC. (Ban marpasi) và Berberis asiatica Roxb. ex DC. (Marpasi) đều có thể tạo ra nước ép để chữa bệnh đau dạ dày và cũng được cộng đồng này khai thác. 3.1.3. Kỹ thuật nhân giống và gây trồng Ở Bắc Mỹ, Úc và một số nước Châu Âu sử dụng các loài cây khác thuộc chi Mahonia (họ Berberidaceae) có hình thái gần giống với HLOR trồng làm cảnh. Chẳng hạn ở Mỹ, nhiều loài cây thuộc chi Mahonia như là M. equifolium; M. fortunei... được trồng làm cảnh xung quanh tường nhà, bờ rào hoặc các khoảng trống giữa các sân trường. Một số loài về mùa đông lá chuyển mầu đỏ rất đẹp và tồn tại qua mùa đông. Người ta cũng đã xây dựng quy trình gồm 8 bước nhân giống dinh dưỡng, gây trồng và chăm sóc các loài cây này. 3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Trong thời gian qua, công tác bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc ở nước ta đã được quan tâm đáng kể. Nhiều bài học kinh nghiệm đã được rút ra (Lê Thanh Chiến, 2005). Theo đó, một chiến lược bảo tồn và phát triển cây thuốc được xác định như sau: Đối với cây dược liệu ngắn ngày, phải điều tra quy hoạch ngay những vùng có loài mọc tập trung, xác định những cây thuốc có nhu cầu sử dụng cao, đề xuất thời gian khai thác phù hợp với khả năng tái sinh của cây. Đối với cây dược liệu đa niên, cần điều tra tài nguyên cây thuốc trong các khu rừng bảo tồn, rừng đặc dụng, xác định các cây thuốc quý để có kế hoạch bảo vệ và phát triển kịp thời. Lựa chọn một số loài cây thuốc giá trị cao, đi sâu vào nghiên cứu nhân giống và phát triển kỹ thuật gieo trồng tại một số vùng đất nhất định để góp phần nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Chẳng hạn như cây thổ phục linh, là một loại thân leo, ưa sáng, chịu hạn tốt, phù hợp với hệ sinh thái đất đồi, nương rẫy. Các xí nghiệp dược thích mua thổ phục linh Phú Yên để làm thuốc chữa thấp khớp rất công hiệu, thế nhưng người dân trong tỉnh chỉ mới khai thác tự nhiên nên số lượng ngày càng ít dần và nguy cơ cạn kiệt loài cây này (Lê Thị Tuyết Anh, Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất dược liệu miền Trung Trước đó, Trần Khắc Bảo (1994) đã đề cập đến các vấn đề về chế biến, bảo quản và phát triển cây thuốc ở Lào Cai và Hà Giang. Lê Quý Ngưu, Trần Như Đức (1998) đã tập trung mô tả đặc điểm hình thái, công dụng, nơi mọc, kỹ thuật thu hái, chế biến và các bài thuốc làm từ các loài thực vật trong đó có thực vật cho LSNG. Nguyễn Bá Hoạt (2002) đã đề cập đến tài nguyên thực vật cho LSNG theo hướng phân loại hệ thống sinh và thống kê thực vật có giá trị làm thuốc ở huyện vùng cao Sa Pa, Lào Cai. Tác giả tập trung mô tả về công dụng và nơi mọc của các loài thực vật ở đây, trong đó có loài HLOR. Nghiên cứu về tiềm năng và vai trò LSNG đối với cuộc sống cộng đồng ở một số vùng đệm của VQG và khu dự trữ thiên nhiên tại Việt Nam cho thấy gần 200 tấn cây dược liệu ở VQG Ba Vì được khai thác trong năm 1997 và 1998, ước tính gần 60% dân tộc Dao tại Ba Vì tham gia vào thu hái cây dược liệu. Đây là nguồn thu nhập chính trước đây và hiện nay là nguồn thu nhập thứ hai sau lúa và sắn (D.A.Gilmour và Nguyễn Văn Sản, 1999). Huỳnh Văn Kéo và cộng sự (2001) đã nghiên cứu về đa dạng sinh học cây thuốc VQG Bạch Mã, đã đề cập đến vấn đề bảo tồn, sử dụng và phát triển bền vững nguồn gốc cây thuốc. Nhìn chung, HLOR ở Việt Nam là cây thuốc quý hiếm. Tính chất quý hiếm ở đây trước hết xét về giá trị nguồn gen và do kích thước quần thể của chúng ở nước ta nhỏ hẹp, vùng phân bố bị chia cắt mạnh. Tiếp đến là giá trị làm thuốc. Xét về bản chất các alcaloid (chủ yếu là berberin) trong cây HLOR có tác dụng chống nhiễm khuẩn, nhưng tác dụng này chưa được nghiên cứu đầy đủ. Do vậy, có thể nói, người dân nói chung chưa có thông tin đầy đủ về giá trị làm thuốc của HLOR, thường là chỉ qua lời đồn đại của người bán hàng rong mà ở nhiều nơi như ở Đèo Gió (Cao Bằng), Sapa (Lào Cai)..., thân và rễ HLOR được bán cho khách qua đường với giá rất cao (50.000-70.000đ/kg thân gỗ khô) (Triệu Văn Hùng và cộng sự, 2007). Người mua nhiều khi không chắc chắn đó là sản phẩm từ cây HLOR hay không, những vẫn mua. Thực tế này đã dẫn đến việc khai thác quá mức HLOR cho dù loài cây này còn rất ít trong tự nhiên (Đỗ Huy Bích, 2006) ở khu vực này. Vì vậy vấn đề bảo tồn và phát triển loài cây này ở nước ta đã trở nên cấp bách. Gần đây, trên thị trường có giới thiệu sản phẩm có thể thay thế mật gấu. Cây mật gấu còn là tên gọi của một số cây thuốc như cây Vàng kiêng (Nauclea purpurea Roxb), họ Cà phê (Rubiaceae) chữa viêm túi mật; cây Hy kiểm (Plectranthus ternifolius D.Don), họ Bạc hà (Lamiaceae)... Ngoài ra, hiện nay ở chợ, dọc đường đi hoặc ở hiệu thuốc Y học cổ truyền, người ta bán những đoạn thân, rễ với tên "Mật gấu" có thể được lấy từ cây HLOR (Mahonia nepalensis DC.) ở một số tỉnh miền núi (Lào Cai, Hà Giang). Tính cấp thiết của ý tưởng đè xuất 4.1. Giá trị và tình trạng của loài Hoàng liên ô rô hiện nay Với tên “Thập đại công lao”: với vị đắng, tính hàn, quy kinh phế, trừ ho, hạ nhiệt, bổ âm hư, trị đau ngực, đau gối, chóng mặt, ù tai, viêm gan, vàng da, tiêu chảy, kiết lỵ. Chúng cũng được chứng minh có tác dụng kháng sinh đối với Staphylococcus aureus, Escherichia coli, Pseudomonas aeruginosa… Đây là loài cây có nguồn gen quý hiếm và độc đáo của Việt Nam và có giá trị rất lớn về dược liệu: từ rễ và thân có thể chiết suất lấy berberin dùng làm thuốc chữa bệnh đường ruột, rễ hoặc gỗ thân sắc uống chữa rối loạn tiêu hóa, kiết lỵ, viêm ruột, đau mắt đỏ, viêm da dị ứng, mẩn ngứa, mụn nhọt... Tính vị, tác dụng: Hoàng liên ô rô có vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt ở phế vị, can thận. Ở Ấn Độ, quả được xem như là lợi tiểu và làm dịu kích thích. Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng chữa ho lao, sốt cơn, khạc ra máu, lưng gối yếu mỏi, chóng mặt ù tai, mất ngủ, Chữa viêm ruột, ỉa chảy, viêm da dị ứng, viêm gan vàng da, mắt đau sưng đỏ, dùng rễ hay cây khô sắc uống, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác. Hoàng liên ô rô ở Việt Nam là cây thuốc quý hiếm. Tính chất quý hiếm ở đây trước hết xét về giá trị nguồn gen và do kích thước quần thể của chúng ở nước ta nhỏ hẹp, vùng phân bố bị chia cắt mạnh. Tiếp đến là giá trị làm thuốc. Xét về bản chất các alcaloid (chủ yếu là berberin) trong cây HLOR có tác dụng chống nhiễm khuẩn, nhưng tác dụng này chưa được nghiên cứu đầy đủ. Do vậy, có thể nói, người dân nói chung chưa có thông tin đầy đủ về giá trị làm thuốc của HLOR, thường là chỉ qua lời đồn đại của người bán hàng rong mà ở nhiều nơi như ở Đèo Gió (Cao Bằng), Sapa (Lào Cai)..., thân và rễ HLOR được bán cho khách qua đường với giá rất cao (50.000-70.000đ/kg thân gỗ khô). Người mua nhiều khi không chắc chắn đó là sản phẩm từ cây HLOR hay không, nhưng vẫn mua. Thực tế này đã dẫn đến việc khai thác quá mức HLOR cho dù loài cây này còn rất ít trong tự nhiên ở khu vực này. Vì vậy vấn đề bảo tồn và phát triển loài cây này ở nước ta đã trở nên cấp bách. Mức độ nguy cấp Sách đỏ Việt Nam 2007 đã xếp hạng nguy cấp loài Hoàng Liên ô rô (Mahonia nepalensis DC.) vào cấp (EN A1c, d). Theo tiêu chuẩn của IUCN cho phân hạng danh lục đỏ và sách đỏ (trích Sách đỏ Việt Nam 2007): - Cấp EN (Endangered): Nguy cấp. Một taxon được coi là nguy cấp khi chưa phải là rất nguy cấp nhưng đang đứng trước một nguy cơ rất lớn sẽ tuyệt chủng ngoài thiên nhiên trong một tương lai gần. Tiêu chuẩn A: suy giảm quần thể dưới bất kỳ dạng nào dưới đây: Suy giảm ít nhất 50%, theo quan sát, ước tính, suy đoán hoặc phỏng đoán trong 10 năm cuối hoặc 3 thế hệ cuối (lấy khoảng tời gian nào dài nhất) dựa trên (và xác định được) một trong những điểm dưới đây: ( a ) Quan sát trực tiếp ( b ) Chỉ số về sự phong phú thích hợp với Taxon đó ( c ) Sự suy giảm nơi cư trú, khu phân bố hay chất lượng nơi sinh cư ( d ) Mức độ khai thác hiện tại hoặc khả năng ( e ) Tác động của các Taxon du nhập, lai tạo, dịch bệnh, chất ôi nhiễm, vật cạnh tranh hoặc ký sinh Suy giảm ít nhất 50%, theo dự đoán hoặc phỏng đoán, sẽ xảy ra trong 10 năm tới hoặc 3 thế hệ tới (lấy hoảng thời gian nào dài nhất), dựa trên (và xác định được) một trong những điểm (b), (c), (d) hoặc (e) trên đây. Như vậy, loài Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis DC.) đang ở trong tình trạng nguy cấp, suy giảm quần thể ít nhất 50%, theo quan sát, ước tính, suy đoán hoặc phỏng đoán trong 10 năm cuối hoặc 3 thế hệ cuối do sự suy giảm nơi cư trú, khu phân bố, chất lượng nơi sinh cư và mức độ khai thác hiện tại hoặc khả năng khai thác. Loài này đang đứng trước nguy cơ rất lớn bị tuyệt chủng trong một tương lai gần nếu không có các biện pháp và phương án bảo tồn hiệu quả Nội dung nghiên cứu của bảo tồn loài Hoàng Liên ô rô Trong hệ thống phân loại, HLOR được xếp như sau: Kingdom: Giới Plantae Division: Ngành Magnoliophyta Class: Lớp Magnoliopsida Order: Bộ Ranunculales Mao lương Family: Họ Berberidaceae Hoàng liên gai Genus: Chi Mahonia Species: Loài Mahonia nepalensis DC. HLOR Tên khoa học đầy đủ là: Mahonia napaulensis de Candolle, Syst Nat. Thường gọi là Mahonia nepalensis DC. hoặc Mahonia nepaulensis DC. Tên Tiếng Anh là Nepaul Barberry 5.1. Nội dung nghiên cứu * Nghiên cứu đặc điểm thân, hình thái bên ngoài. * Nghiên cứu đặc điểm cây tái sinh đo đếm một số cây về các chỉ tiêu Hvn, Dt, Lc, Lb. * Nghiên cứu đặc điểm hình thái lá. * Nghiên cứu đặc điểm cành và cách phân cành * Nghiên cứu về đặc điểm hoa quả * Nghiên cứu vật hậu - Mùa rụng lá, ra hoa, chồi - Mùa hoa, quả 5.2. Đặc điểm lâm phần nơi có loài Hoàng Liên ô rô phân bố tập trung tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên * Cấu trúc tổ thành cây gỗ, cây tái sinh - Cấu trúc tổ thành cây tái sinh - Cấu trúc tổ thành cây gỗ * Cấu trúc của mật độ Mật độ cây gỗ Mật độ cây tái sinh Thành phần loài đi kèm Tái sinh quanh gốc mẹ 5.3. Đặc điểm hình thái của loài Hoàng liên ô rô 5.3.1. Thân Cây thân thảo, cây bụi hay cây gỗ nhỏ, có thể có gai,cao 1,5 – 3m có thể cao đến 5 - 7m. Vỏ có lớp bần dày, màu trắng xám. Gỗ thân và rễ có màu vàng nhạt. Cây có thể phân nhánh. 5.3.2. Lá Lá kép lông chim lẻ, dài 20 – 40 cm. Lá kép mang 11-25 lá chét mọc đối xếp chéo hình chữ thập. Bề mặt lá không có lông, cứng, gần như không cuống, hình bầu dục hoặc hơi thuôn, cỡ 3,5 – 7 x 2,5 – 4 cm. Gốc hình tim hoặc cụt, đỉnh nhọn hoắt thành gai. Phiến lá dày, cứng, mép khía 3 – 5 răng cưa mép to, nhọn sắc, 3 gân chính, gân phụ nổi rõ ở cả 2 mặt. Lá có thể chứa các viên sỏi, nhìn thấy đưới dạng các sọc Lá lúc non màu đỏ. Khi già chuyển thành màu xanh lục hoặc xanh lục thẫm. Lá kèm nhọn giống như hai gai nhỏ 5.3.3. Hoa Hoa hoàn hảo, đối xứng hai bên tới gần như đối xứng tỏa tia, các hoa này mọc thành một cụm hoa 1 – 5, hình bông, phân nhánh, mọc thẳng ở ngọn Thông thường trên hoa có lá bắc nhiều màu sắc, hình bầu dục đối diện với mỗi hoa. Hoa nhiều, màu vàng nhạt. Đài hoa 9 xếp thành 3 vòng. Tràng hoa 6 hình ống, 2 môi hay 5 thùy, có 2 tuyến mật ở gốc. Nhị hoa 6 xếp đối với tràng hoa, bao phấn dài bằng nửa chỉ nhị, chỉ nhị có xúc ứng động. Bầu nhụy lớn, hình trụ, phình ở giữa, lá noãn 1 với kiểu đính noãn gắn trụ. 5.3.4. Quả và hạt Quả mọng hay quả hạch, màu xanh lơ, gần hình cầu, đường kính 6 – 7 mm, đầu quả có núm nhỏ do đầu nhụy còn tồn tại. Quả có một hạt, là loại không có nội nhũ với các phôi lớn, màu nâu đen dài khoảng 3 mm 5.4. Nghiên cứu đặc điểm sinh thái của loài 5.4.1. Đặc điểm sinh học và sinh thái học Mùa hoa Hoàng liên ô rô vào các tháng 2 – 4, ra quả tháng 4 – 6. Cây ra hoa kết quả nhiều, chủ yếu tái sinh tự nhiên bằng hạt, có khả năng tái sinh chồi sau khi bị chặt phát. Đây là đặc điểm cho thấy loài có khả năng nhân giống từ hạt và nhân giống vô tính từ hom khá tốt. Cây mọc hoang ở vùng núi cao lạnh, thường gặp ở ven rừng một số núi cao như Lang biang (Lâm Đồng) và Phăng xi păng (Lào Cai). Quả thu hái về mùa hạ. Thân và lá thu hái quanh năm, rửa sạch, phơi khô. Hoàng liên ô rô là cây ưa ẩm, lúc nhỏ chịu bóng, sau ưa sáng. Thích nghi với vùng khí hậu ôn hòa, điều kiện khí hậu ẩm mát quanh năm, nhiệt độ trung bình 15 - 16°C, lượng mưa 1600 – 2800 mm/năm, độ ẩm không khí trên 80%, quanh năm sương mù. (Đà Lạt, Lang Bian). Thường mọc rải rác ở ven rừng hoặc dưới tán rừng kín thường xanh ẩm ở độ cao 1700 – 1900 m. Hiện nay ở theo Sách đỏ Việt Nam, 2007, loài Hoàng liên ô rô có phân bố tại 6 tỉnh bao gồm Lâm Đồng, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Hà Giang và Cao Bằng 5.4.2. Giá trị của loài Với tên “Thập đại công lao”: với vị đắng, tính hàn, quy kinh phế, trừ ho, hạ nhiệt, bổ âm hư, trị đau ngực, đau gối, chóng mặt, ù tai, viêm gan, vàng da, tiêu chảy, kiết lỵ. Chúng cũng được chứng minh có tác dụng kháng sinh đối với Staphylococcus aureus, Escherichia coli, Pseudomonas aeruginosa… Đây là loài cây có nguồn gen quý hiếm và độc đáo của Việt Nam và có giá trị rất lớn về dược liệu: từ rễ và thân có thể chiết suất lấy berberin dùng làm thuốc chữa bệnh đường ruột, rễ hoặc gỗ thân sắc uống chữa rối loạn tiêu hóa, kiết lỵ, viêm ruột, đau mắt đỏ, viêm da dị ứng, mẩn ngứa, mụn nhọt... Tính vị, tác dụng: Hoàng liên ô rô có vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt ở phế vị, can thận. Ở Ấn Độ, quả được xem như là lợi tiểu và làm dịu kích thích. Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng chữa ho lao, sốt cơn, khạc ra máu, lưng gối yếu mỏi, chóng mặt ù tai, mất ngủ, Chữa viêm ruột, ỉa chảy, viêm da dị ứng, viêm gan vàng da, mắt đau sưng đỏ, dùng rễ hay cây khô sắc uống, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác. 5.5. Đề xuất phương thức bảo tồn - Bảo tồn tai chỗ ( nội vi ) Ínitu Với những giá trị mà cây Hoàng Liên ô rô mang lại hiện nay cây đang bị khai thác một cách cạn kiệt và có nguy cơ suy thoái nghiêm trọng nên cần có những biện pháp bảo tồn tại chỗ trong điều kiện tự nhiên tại vườn quốc gia Hoàng Liên nhằm phát triển nguồn gen. Đối với loài cây Hoàng Liên ô rô thì sẽ tiến hành bảo tồn trong vùng tự nhiên như: vườn quốc gia hoặc khu bảo tồn thiên nhiên nơi có loài này phân bố tự nhiên VQG Ba Vì, VQG Bạch Mã, khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên. Khi đã điều tra được nơi sống, điều kiện sống, phân bố tiến hành bảo tồn theo các phương thức: + Bảo tồn loài Hoàng Liên ô rô ở dưới tán rừng nơi có loài phân bố tự nhiên tại khu bảo tồn Hoàng Liên. Loài được bảo tồn ngoài tự nhiên hoặc trong các vườn ươm, các lâm trường. Tại đây loài sẽ được trồng, chăm sóc và các cán bộ kĩ thuật tiến hành nhân giống bằng phương pháp gieo ươm hạt hoặc la giâm hom. + Bảo tồn loài do người dân: thực hiện trên đất rừng được giao khoán. Được sự hướng dẫn của các cán bộ lâm nghiệp về kĩ thuật nhân giống, trồng, cũng như chăm sóc. Mở các lớp tập huấn cho người dân về bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên rừng. Đối với những cây đã lớn thì có thể bảo tồn nơi nó mọc tự nhiên. Đối với những cây còn non, nhỏ thì có thể đưa về vườn nhà của người dân để ươm. - Bảo tồn chuyển chỗ ( ngoại vi ) Ex-Situ + Xây dựng các vườn thực vật, khu rừng thực nghiệm, vườn cây thuốc di dời các cây Hoàng Liên ô rô trong môi trường tự nhiên ở khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên vào môi trường sống mới. Các vườn thực vật đảm bảo điều kiện sống thích hợp như nơi loài có phân bố tự nhiên. Sau thời gian loài đã được thích nghi với điều kiện sống ở vườn tiến hành nghiên cứu và gây trồng nhân tạo. Thực tế đã
Luận văn liên quan