Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là một trong những điều kiện không thể thiếu cho hoạt đông sản xuất và đời sống con người. Việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ trước mắt mà cả lâu dài.Trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước việc sử dụng đất hợp lý, có hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng tránh gây lãng phí hạn chế sự hủy hoại đất và tránh phá vỡ môi trường sinh thái. Ngành lâm nghiệp có tác dụng rất lớn đối với nền kinh tế có nhiều mặt không chỉ cung cấp đặc sản rừng mà còn tác dụng giữ đất, điều tiết nguồn nước, chống ô nhiễm môi trường, điều hòa khí hậu, phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái, đa dạng sinh học và các giá trị cảnh quan, du lịch, văn hóa Vậy mà những năm qua dường như con người đã lãng quyên ý nghĩa quan trọng đó, chỉ tập trung khai thác triệt để thỏa mãn nhu cầu trước mắt của mình. Đầu tiên là sự khai thác kiệt quệ những loài gỗ quý, có giá trị cao về mặt kinh tế và thẩm mỹ, làm giảm tính đa dạng sinh học, mất đi nguồn gen sinh vật quý và những giá trị văn hóa tổn tại trong nó mà còn làm xuất hiện hàng loạt các biến đổi tiêu cực của khí hậu như hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ozon hay sự xuất hiện của lũ quét gây thiệt hại nặng nề về người và của.
Nước ta là một nước nông nghiệp với dân số khoảng 85 triệu người trong đó có trên 75% dân số sống dựa vào nông nghiệp nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt ở những vùng nông thôn miền núi mà thu nhập của họ chủ yếu từ nông lâm nghiệp. Nhưng ở nước ta nói chung và ở miền núi nói riêng thì ngành lâm nghiệp còn kém phát triển, hoạt động sản xuất gặp nhiều khó khăn, trình độ canh tác chưa cao nên dẫn đến năng suất lao động thấp. Hơn nữa nhiều nơi việc sử dụng đất đai còn nhiều bất hợp lý, việc sử dụng đất mới chỉ dừng lại ở việc lợi dụng mà chưa có biện pháp cải tạo đất, nâng cao chất dinh dưỡng trong đất nhằm sử dụng đất một cách bền vững. Do vậy, để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, góp phần nâng cao năng suất trong sản xuất cho hợp lý. Việc quy hoạch sử dụng đất khu vực nông thôn là việc làm cần thiết góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân khu vực nông thôn.
Hà Quảng là huyện miền núi, vùng cao, biên giới, nằm về cực bắc của tỉnh Cao Bằng. Huyện có địa hình bán sơn địa với tổng diện tích tự nhiên là 45.322,66 ha. Trong đó diện tích nông nghiệp 42.056,88 chiếm 92,79 % diện tích tự nhiên của toàn huyện, tổng diện tích lâm nghiệp 34.581,20 ha chiếm 76,30%. Diện tích chưa sử dụng 2.329,40 ha chiếm 5,14% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện. với 19 đơn vị hành chính cấp xã. Trong đó, có 9 xã vùng biên giới và có 5 dân tộc cùng sinh sống đó là: Tày, Nùng, Mông, Kinh, Dao. Do trình độ dân trí chưa cao, sản xuất manh mún, đời sống gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng còn kém phát triển. Tình hình quản lý sử dụng đất đai trong những năm qua còn nhiều bất cập hiệu quả sử dụng đất chưa cao ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội và ổn định đời sống nhân dân trong huyện. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiến trên nên tôi chọn đề tài này “Nghiên cứu đề xuất mô hình nông lâm kết hợp để cải tạo đất gò đồi tại huyện Hà Quảng - tỉnh Cao Bằng” đề tài sẽ góp phần nghiên cứu và phát triển một cây trồng có nhiều tiềm năng trong phát triển nông nghiệp bền vững ở vùng đất dốc, đặc biệt là các tỉnh miền núi. Trong tương lai, che phủ đất sẽ giảm đáng kể nhu cầu sử dụng phân hoá học, như vậy sẽ tiết kiệm được năng lượng cần phải tiêu tốn để sản xuất ra các loại phân này. Điều này cũng đồng nghiã với việc giảm thải vào khí quyển các khí hiệu ứng nhà kính, giảm ô nhiễm môi trường. Sản phẩm nông nghiệp sẽ là những sản phẩm hữu cơ có độ an toàn cao. Môi trường sinh thái sẽ được cải thiện, sức khoẻ cộng đồng sẽ được đảm bảo.
54 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6062 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu đề xuất mô hình nông lâm kết hợp để cải tạo đất gò đồi tại huyện Hà Quảng - Tỉnh Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là một trong những điều kiện không thể thiếu cho hoạt đông sản xuất và đời sống con người. Việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ trước mắt mà cả lâu dài.Trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước việc sử dụng đất hợp lý, có hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng tránh gây lãng phí hạn chế sự hủy hoại đất và tránh phá vỡ môi trường sinh thái. Ngành lâm nghiệp có tác dụng rất lớn đối với nền kinh tế có nhiều mặt không chỉ cung cấp đặc sản rừng mà còn tác dụng giữ đất, điều tiết nguồn nước, chống ô nhiễm môi trường, điều hòa khí hậu, phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái, đa dạng sinh học và các giá trị cảnh quan, du lịch, văn hóa…Vậy mà những năm qua dường như con người đã lãng quyên ý nghĩa quan trọng đó, chỉ tập trung khai thác triệt để thỏa mãn nhu cầu trước mắt của mình. Đầu tiên là sự khai thác kiệt quệ những loài gỗ quý, có giá trị cao về mặt kinh tế và thẩm mỹ, làm giảm tính đa dạng sinh học, mất đi nguồn gen sinh vật quý và những giá trị văn hóa tổn tại trong nó mà còn làm xuất hiện hàng loạt các biến đổi tiêu cực của khí hậu như hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ozon hay sự xuất hiện của lũ quét gây thiệt hại nặng nề về người và của.
Nước ta là một nước nông nghiệp với dân số khoảng 85 triệu người trong đó có trên 75% dân số sống dựa vào nông nghiệp nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt ở những vùng nông thôn miền núi mà thu nhập của họ chủ yếu từ nông lâm nghiệp. Nhưng ở nước ta nói chung và ở miền núi nói riêng thì ngành lâm nghiệp còn kém phát triển, hoạt động sản xuất gặp nhiều khó khăn, trình độ canh tác chưa cao nên dẫn đến năng suất lao động thấp. Hơn nữa nhiều nơi việc sử dụng đất đai còn nhiều bất hợp lý, việc sử dụng đất mới chỉ dừng lại ở việc lợi dụng mà chưa có biện pháp cải tạo đất, nâng cao chất dinh dưỡng trong đất nhằm sử dụng đất một cách bền vững. Do vậy, để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, góp phần nâng cao năng suất trong sản xuất cho hợp lý. Việc quy hoạch sử dụng đất khu vực nông thôn là việc làm cần thiết góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân khu vực nông thôn..
Hà Quảng là huyện miền núi, vùng cao, biên giới, nằm về cực bắc của tỉnh Cao Bằng. Huyện có địa hình bán sơn địa với tổng diện tích tự nhiên là 45.322,66 ha. Trong đó diện tích nông nghiệp 42.056,88 chiếm 92,79 % diện tích tự nhiên của toàn huyện, tổng diện tích lâm nghiệp 34.581,20 ha chiếm 76,30%. Diện tích chưa sử dụng 2.329,40 ha chiếm 5,14% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện. với 19 đơn vị hành chính cấp xã. Trong đó, có 9 xã vùng biên giới và có 5 dân tộc cùng sinh sống đó là: Tày, Nùng, Mông, Kinh, Dao. Do trình độ dân trí chưa cao, sản xuất manh mún, đời sống gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng còn kém phát triển. Tình hình quản lý sử dụng đất đai trong những năm qua còn nhiều bất cập hiệu quả sử dụng đất chưa cao ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội và ổn định đời sống nhân dân trong huyện. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiến trên nên tôi chọn đề tài này “Nghiên cứu đề xuất mô hình nông lâm kết hợp để cải tạo đất gò đồi tại huyện Hà Quảng - tỉnh Cao Bằng” đề tài sẽ góp phần nghiên cứu và phát triển một cây trồng có nhiều tiềm năng trong phát triển nông nghiệp bền vững ở vùng đất dốc, đặc biệt là các tỉnh miền núi. Trong tương lai, che phủ đất sẽ giảm đáng kể nhu cầu sử dụng phân hoá học, như vậy sẽ tiết kiệm được năng lượng cần phải tiêu tốn để sản xuất ra các loại phân này. Điều này cũng đồng nghiã với việc giảm thải vào khí quyển các khí hiệu ứng nhà kính, giảm ô nhiễm môi trường. Sản phẩm nông nghiệp sẽ là những sản phẩm hữu cơ có độ an toàn cao. Môi trường sinh thái sẽ được cải thiện, sức khoẻ cộng đồng sẽ được đảm bảo.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Mỗi quốc gia, đơn vị hành chính từ tỉnh, huyện, xã đều có chiến lược phát triển cho tương lai. Nội dung xây dựng mô hình nông lâm kết hợp là việc bố trí sử dụng đất đai ổn định lâu dài theo các mục đích khác nhau để thỏa mãn những nhu cầu lương thực và chất lượng, ngoài ra còn chú ý mở rộng diện tích đất canh tác, thay đổi giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao hơn, thực hiện khuyến nông, khuyến lâm để lợi dụng tiềm năng đất đai một cách có hiệu quả nhất.
Trên thế giới
Theo tổ chức nông lương thế giới (FAO), Hiện nay trên toàn thế giới có khoảng 1,476 tỷ ha đất nông nghiệp. Trong đó có khoảng 65,9% diện tích đất dốc ở đồi núi và có khoảng 544 triệu ha đất canh tác mất khả năng sử dụng. Để đảm bảo nhu cầu về nông sản cho con người trên trái đất, ngoài việc nghiên cứu hướng thâm canh tăng vụ trên cơ sở bố trí các hệ thống cây trồng tối ưu ở các vùng đất bằng, xu hướng hiện nay trên thế giới là tập trung nghiên cứu, khai thác đất nông nghiệp ở vùng gò đồi theo hướng cây trồng và bảo vệ đất canh tác trên đất dốc để phát triển một số cây trồng có nhiều tiềm năng trong phát triển nông nghiệp bền vững ở vùng đất dốc.
Các vùng đồi núi trên thế giới có độ dốc đất trên 100 chiếm từ 50-60% diện tích đất nông nghiệp. Do đó, nghiên cứu khai thác đất nông nghiệp ở vùng đồi núi thực chất là vấn đề nghiên cứu canh tác trên đất dốc hay canh tác trên nương rẫy, nghiên cứu quan hệ giữa hệ thống cây trồng trên đất dốc với vấn đề rửa trôi và xói mòn đất, nghiên cứu ứng dụng hệ thống canh tác nông lâm kết hợp trên đất dốc.
Các nghiên cứu về tình hình và nguyên nhân đất bị xói mòn, thoái hóa mối liên hệ kiểu sử dụng đất và xói mòn ở một số nước châu Á trong hội thảo tại Nepal cho rằng: Hệ canh tác truyền thống trên đất dốc theo kiểu du canh gây xói mòn nghiêm trọng, rửa trôi từ 100-120 tấn đất/năm. Đồng thời khẳng định hệ thống canh tác ruộng bậc thang và trồng cây theo băng có tác dụng giảm xói mòn rõ rệt, lượng đất bị rửa trôi chỉ còn khoảng 2-16 tấn đất/năm. Các kết quả nghiên cứu cũng đã đưa ra bốn nguyên nhân làm thoái hóa đất, nhân tố tự nhiên ( khí hậu, độ dốc) quản lý kém ( khai thác rừng bừa bãi ) gây cháy rừng và chính sách vĩ mô quyền sở hữu đất đai, thiếu sự hướng dẫn.
Hạn chế xói mòn và thoái hóa đất là một vấn đề quan trọng được đặt trong hoàn cảnh hiện nay của thế giới.
1.2 Ở Việt Nam
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, các tập quán canh tác nông lâm kết hợp đã có ở Việt Nam từ lâu đời, như các hệ thống canh tác nương rẫy truyền thống của đồng bào các dân tộc ít người, hệ sinh thái vườn nhà ở nhiều vùng địa lý sinh thái trên khắp cả nước v.v... Làng truyền thống của người Việt cũng có thể xem là một hệ thống nông lâm kết hợp bản địa với nhiều nét đặc trưng về cấu trúc và các dòng chuyển vật chất năng lượng.
Từ thập niên 60, song song với phong trào thi đua sản xuất, hệ sinh thái Vườn - Ao - Chuồng (VAC) được nhân dân các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan rộng khắp cả nước với nhiều biến thể khác nhau thích hợp cho từng vùng sinh thái cụ thể. Sau đó là các hệ thống Rừng - Vườn - Ao - Chuồng (RVAC) và vườn đồi được phát triển mạnh ở các khu vực dân cư miền núi. Các hệ thống rừng ngập mặn- nuôi trồng thủy sản cũng được phát triển mạnh ở vùng duyên hải các tỉnh miền Trung và miền Nam. Các dự án được tài trợ quốc tế cũng giới thiệu các mô hình canh tác trên đất dốc theo đường đồng mức (SALT) ở một số khu vực miền núi. Trong hai thập niên gần đây, phát triển nông thôn miền núi theo phương thức nông lâm kết hợp ở các khu vựccó tiềm năng là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Quá trình thực hiện chính sách định canh định cư kinh tế mới, mới đây các chương trình 327, chương trình 5 triệu ha rừng (661) và chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại đều có liên quan đến việc xây dựng và phát triển các hệ thống nông lâm kết hợp tại Việt Nam. Các thông tin, kiến thức về nông lâm kết hợp cũng đã được một số nhà khoa học, tổ chức tổng kết được những góc độ khác nhau. Điển hình là các ấn phẩm của Lê Trọng Cúc và cộng sự (1990) về việc xem xét và phân tích các hệ sinh thái nông nghiệp vùng trung du miền Bắc trên cơ sở tiếp cận sinh thái nhân văn. Các hệ thống nông lâm kết hợp điển hình trong nước đã được tổng kết bởi FAO và IIRR (1995), cũng như đã được mô tả trong ấn phẩm của Cục Khuyến Nông và Khuyến lâm dưới dạng các "mô hình" sử dụng đất Mittelman (1997) đã có một công trình tổng quan về hiện trạng nông lâm kết hợp và lâm nghiệp xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là các nhân tố chính sách ảnh hưởng đến sự phát triển nông lâm kết hợp. Tuy nhiên các tư liệu nghiên cứu về tương tác giữa phát triển nông lâm kết hợp với môi trường tự nhiên, kinh tế xã hội xung quanh (vi mô và vĩ mô) vẫn còn rất ít.
1.2.1 Tình hình về sử dụng đất ở việt nam
Diện tích tự nhiên (phần đất liền) nước ta khoảng 33 triệu hécta, đứng hàng thứ 58 trên thế giới nhưng dân số lại đông cho nên bình quân đất đai tính theo đầu người thuộc loại thấp, chỉ khoảng 0,5 ha/người, là một trong số 40 nước có diện tích đất đai bình quân tính theo đầu người thấp nhất trên thế giới hiện nay. Đặc biệt là trong tổng số diện tích đất đai này, có tới hơn hai phần ba diện tích là đất đồi núi dốc, còn lại gần một phần ba là đất đồng bằng. Tính đến năm 2003, đất đã được sử dụng cho sản xuất nông lâm nghiệp là gần 17 triệu hecta, chiếm hơn hai phần ba diện tích là đất đồi núi dốc, còn lại gần một phần ba là đất đồng bằng. Tính đến năm 2003, đất đã được sử dụng cho sản xuất nông lâm nghiệp là gần 17 triệu hecta, chiếm hơn một nửa diện tích đất cả nước (51,5%) và được chia ra như sau: Đất nông nghiệp hơn 7,3 triệu hecta, trong đó đất trồng cây hàng năm là 5,6 triệu hecta, cây lâu năm là 1,4 triệu hecta và mặt nước là 0,273 triệu hecta. Đất lâm nghiệp hơn 9, 6 triệu hecta gồm đất rừng tự nhiên hơn 8,8 triệu hecta và đất rừng trồng gần 0,8 triệu hecta. Như vậy là tỷ lệ đất đã sử dụng còn thấp, về nông nghiệp mới có 22,3%, trong đó đất trồng cây hàng năm chiếm đến 17% diện tích tự nhiên. Đất lâm nghiệp có cao hơn chiếm 29,2% nhưng vẫn còn quá thấp so với yêu cầu nhất là về mặt đảm bảo an toàn môi trường và phòng hộ.
Đất chưa sử dụng còn 14,2 triệu hecta chiếm 43% diện tích tự nhiên trong đó gần 6,7 triệu ha là đồi núi trọc, chiếm gần 20,3 % diện tích tự nhiên. Đáng chú ý là trong diện tích đất này có khoảng 10,4 triệu hecta (31,5% diện tích tự nhiên) là có khả năng sử dụng cho nông lâm nghiệp nhưng đã bị thoái hoá mạnh, đòi hỏi phải có đầu tư lớn.
Thực trạng nêu trên cho thấy là quỹ đất đai của nước ta quá ít, đất đai được sử dụng càng ít. Đất trống đồi núi trọc đang bị thoái hoá nghiêm trọng. Điều này ảnh hưởng đến tính bền vững trong sử dụng đất.
1.3 Tổng quan sử dụng mô hình nông lâm kết hợp ở Việt nam
1.3.1 Mô hình nông lâm kết hợp trên đất gò đồi và trung du
Mô hình này thường xuất hiện ở vùng bán sơn địa thuộc các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc và miền Trung. Tại đây, đất đai và khí hậu có những đặc điểm chính như sau:
Đất xám bạc màu, chủ yếu phát triển trên phù sa cổ, đá macma axit và đất cát. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, dung trọng 1,3 -1,5 cm3, tỷ trọng 2,65 -2,70 g/cm3BB, độ xốp 43 - 44 %. Phản ứng của đất từ chua vừa đến chua (pH (KCl) giao động 3,4 - 4,5) nghèo cation kiềm trao đổi, độ no bazơ và dung tích hấp phụ thấp, hàm lượng mùn của tầng đất mặt nghèo. Đất xám bạc màu có nhược điểm là chua, nghèo dinh dưỡng, thường bị khô hạn và xói mòn. Tuy nhiên do địa hình không dốc, thoáng khí dễ thoát nước, đất nhẹ dễ canh tác nên loại đất này thường thích hợp cho canh tác theo phương thức nông lâm kết hợp với các loại cây rừng, cây công nghiệp, cây lương thực khí hậu vùng này ôn hoà, lượng mưa quân bình hàng năm 1800-2200 mm/năm. Nhiệt độ bình quân năm 22-28 Po PC, có sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm tương đối rõ. Mô hình canh tác nông lâm kết hợp thường có quy mô 2- 3 ha cho một hộ gia đình, bố trí trên một mái đồi hay cả quả đồi, cây trồng trên mô hình này được phân bổ như sau:
• Rừng ở đỉnh và sườn cao, diện tích 1- 2 ha, trồng các loại cây lâm nghiệp như: Mỡ, bồ đề, bạch đàn, keo để lấy gỗ, giữ nước và ngăn chặn xói mòn, những năm đầu nơi đất dày ẩm được trồng xen dứa, chè hoặc đỗ lạc để tận dụng đất.
• Nương ở sườn đồi, diện tích 0,5 – 1 ha, trồng lúa nương, có đào rãnh và đắp bờ đất ngang đốc để giữ nước. Nhiều nơi đã trồng xen đỗ lạc giữa các hàng cây hoặc các băng cây cốt khí hay cây gỗ, rộng 1 – 2m cách nhau 10 -15m ngang dốc để giữ nước, làm phân xanh hoặc lấy gỗ củi. Nhiều gia đình có tập quán làm bậc thang để giữ nước, giữ màu.
. • Vườn ở chân đồi, nơi thấp nhất, gần thung lũng, gần đường đi lại, rộng 0,2– 0,3 ha, trồng các loại cam, chanh, bưởi, chè và các cây có giá trị hàng hoá khác ở quanh nhà. Đối với mô hình canh tác trên đất đã bị bạc màu, thoái hoá, một số giải pháp kỹ thuật nhằm chống xói mòn, tăng năng suất cây trồng sau đây thường được áp dụng như sau:
Bảng 1.1 Giải pháp cải tạo đất
Giải pháp kỹ thuật
Mô tả
1. Cải tạo đất nơi có địa hình dốc
Hàng rào cây xanh
Các loài cây họ đậu, cốt khí, đậu triều,
Làm rãnh chống xói mòn
Chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống
Tạo ruộng bậc thang khoảng cách nhỏ
Dựa vào kinh nghiệm của địa phương
Cây che phủ (lưu niên)
Trồng cây ăn quả lưu niên (Nhãn, ải, xoài....)
Trồng xen vụ cây lương thực
Ngô, đậu, lạc .
Bón phân hợp lý tăng độ phì của đất
Bón các loại phân chuồng, phân xanh
2. Thâm canh cây lương thực
Trồng các loài cây lương thực đã được cải thiện
Các giống ngô, sắn, đậu lạc,………
Bón phân cho cây trồng hợp lý
Bón phân hữu cơ
3. Trồng cây ăn quả/ cây lưu niên
Cải tạo các vườn cây ăn quả hiện có
Các loài cây bản địa có giá trị kinh tế
Đa dạng các loại cây ăn quả đã được cải tạo
Trồng thâm canh các loại cây ăn quả
Nguồn: Kết quả nghiên cứu Nông lâm kết hợp vùng Tây Bắc của Dự án LNXH Sông Đà
Lợi ích có được từ mô hình trên -Rừng trồng sau 5- 10 năm thu được khoảng 50 – 100 m3 gỗ làm nguyên liệu giấy trị giá 10 – 15 triệu đồng, bình quân 1,5 – 2 triệu đồng/năm, tuy không thu được lợi ngay, nhưng các năm đầu có sản phẩm trồng xen, cành lá và cây tỉa thưa để bán và đun nấu.
Nương cũng cho 1 – 2 tấn lương thực quy thóc hàng năm để giải quyết cái ăn hàng ngày. Vườn cung cấp thực phẩm hàng ngày cho gia đình, ngoài ra còn có thể bán các nông sản, được 1 – 3 triệu đồng tiền mặt mỗi năm để mua sắm các thứ cần thiết. Như vậy là đất đai tuy xấu nhưng đã được sử dụng hợp lý và tổng hợp, biết áp dụng những biện pháp canh tác đất dốc đơn giản, có đầu tư cao hơn nhờ biết tận dụng lao động và thời gian tiềm năng sẵn có của gia đình mà đất đai được cải thiện, duy trì được độ màu mỡ để canh tác được lâu dài hơn.
1.3.2 Mô hình nông lâm kết hợp vùng núi cao
Đất đai vùng núi cao chủ yếu là 2 nhóm đất: (1) Đất nâu vàng, loại đất này có màu phổ biến là nâu vàng, thành phần cơ giới nặng, tầng đất trung bình và dày thoát nước tốt, hình thát phẫu diện tương đối đồng nhất, cấu trúc khá tốt và bền. Tuy nhiên một số nơi đất đã bị rửa trôi xói mòn, thoái hoá do sử dụng không hợp lý đất trở nên khô cằn, nghèo dinh dưỡng. Loại đất này thường thích hợp với cây lâm nghiệp, cây ăn quả, cây công nghiệp.(2) Đất mùn vàng đỏ trên núi, loại đất này nằm ở vùng núi, trung bình từ độ cao 700-900 m đến 2000 m so với mặt biển. Khí hậu lạnh và ẩm hơn vùng đồi núi thấp, nhiệt độ bình quân năm vào khoảng 15-20Po PC. Do địa hình cao dốc hiểm trở nên đất thường bị xói mòn mạnh, mặt khác do quá trình phong hoá yếu nên đa số đất có phẫu diện không dày. Đất có phản ứng chua vừa đến ít chua, hàm lượng mùn cao. Đất mùn vàng đỏ trên núi thích hợp cho áp dụng các phương thức nông lâm kết hợp. Áp dụng các kỹ thuật luân canh tốt như luân canh cây lương thực, cây hoa màu họ đậu. Canh tác và trồng các loại hoa màu dọc theo các đường đồng mức để chống xói mòn, giữ đất và giữ nước. Sử dụng toàn bộ chất hữu cơ dư thừa có sẵn (các phẩm vật dư thừa sau thu hoạch, phân động vật) để bón cho đất, chất hữu cơ có tác dụng cải tạo đất làm cho đất tơi xốp và tăng độ phì của đất. Đa dạng hoá cây trồng bao gồm cả trồng cây lâu năm. Cây lâu năm có giá trị phòng hộđặc biệt trên đất dốc. Cây ăn quả và cây công nghiệp có thể được trồng thành các vườn nhỏ hoặc xen lẫn cây nông nghiệp, trồng rừng và bảo vệ rừng ở khu vực cao nhất của trang trại. Các khu rừng này vừa có tác dụng bảo vệ đất và nước đồng thời cho sản phẩm gỗ, củi phục vụ sinh hoạt. Bảo vệ đất trong giai đoạn bỏ hoá. Sử dụng các chất liệu che phủ mặt đất bảo vệ đất khỏi phơi ra nắng gắt, bị bào mòn do gió và mưa. Nuôi gia súc nhốt trong chuồng hay buộc tại chỗ. Vì chăn thả tự do có thể là nguyên nhân gây ra xói mòn ở vùng cao.
1.4 Nhu cầu và thách thức đối với phát triển bền vững nông thôn miền núi
1.4.1 Phát triển bền vững nông thôn và miền núi
Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững là quản lý và bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên và định hướng các thay đổi kỹ thuật và định chế nhằm đảm bảo thoả mãn các nhu cầu của con người của các thế hệ hiện tại và trong tương lai. Đó là sự phát triển đảm bảo bảo tồn đất, nước và các nguồn trên động thực vật, chống xuống cấp về môi trường, phù hợp về kỹ thuật, khả thi vê kinh tế và được xã hội chấp nhận (FAO,1995). Nói một cách đơn giản hơn, phát triển bền vững chính là việc sử dụng tài nguyên đáp ứng được các nhu cầu về sản xuất của thế hệ hiện tại, trong khi vẫn bảo tồn được nguồn tài nguyên cần cho nhu cầu của các thế hệ tương lai.
1.4.2. Các thách thức
Như vậy, bối cảnh thay đổi trên đã cho thấy một nhu cầu và cũng là một thách thức lớn cho phát triển bền vững nông thôn và miền núi là:
• Hình thành và phát triển các phương thức quản lý sử dụng tài nguyên thiên
nhiên (bao gồm rừng, đất và nước) một cách tổng hợp trong đó có sự dung hòa giữa các lợi ích về kinh tế và bảo tồn tài nguyên môi trường.
• Quản lý và sử dụng đất đồi núi có hiệu quả.
• Quản lý và sử dụng đất đảm bảo tính công bằng, được sự chấp nhận của người dân hình thành và phát triển hệ thống quản lý sử dụng đất được sự chấp chấp nhận của người dân và các nhóm đối tượng có liên quan khác.
Nông lâm kết hợp là một phương thức sử dụng đất tổng hợp giữ lâm nghiệp với các ngành nông nghiệp (bao gồm cả chăn nuôi) và thủy sản, có nhiều ưu điểm và ý nghĩa về bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển kinh tế xã hội được công nhận rộng rãi trên khắp thế giới.
Bảng 1.2 Mâu thuẫn giữa trồng trọt và lâm nghiệp trong điều kiện áp lực tăng dân số dẫn đến sự phát triển kỹ thuật nông lâm kết hợp đa dạng ở vùng cao
Để cân bằng sinh thái cần phát triển và bảo vệ tài nguyên rừng
Sản xuất đất dốc canh tác
Lâm nghiệp
Lấy phòng hộ bảo vệ làm chính
Rừng và đất rừng được khai hoang để gia tăng diện tích sản xuất lương thực
Trồng trọt
Lấy sản xuất làm căn cứ
Gia tăng mâu thuẫn trong sử dụng đất
Phát triển nông lâm kết hợp
Chiều hướng Sản xuất đa dạng
Cây lâu năm và hoa màu được quản lý tổng hợp tối ưu hóa việc bảo vệ đất nước trong khi vẫn thỏa mãn nhu cầu sản xuất lương thực
Trồng xen hoa màu và cây lâu năm để tối đa hóa sức sản xuất trong điều kiện tài ngyên khan hiếm
1.5 Lợi ích của các hệ thống nông lâm kết hợp.
1.5.1 Các lợi ích của nông lâm kết hợp
Thực tiễn sản xuất cũng như nhiều công trình nghiên cứu trung và dài hạn ở nhiều nơi trên thế giới đã cho thấy nông lâm kết hợp là một phương thức sử dụng tài nguyên tổng hợp có tiềm năng thoả mãn các yếu tố của phát triển nông thôn và miền núi bền vững. Các lợi ích mà nông lâm kết hợp có thể mang lại rất đa dạng, tuy nhiên có thể chia thành 2 nhóm nhóm các lợi ích trực tiếp cho đời sống cộng đồng và nhóm các lợi ích gián tiếp cho cộng đồng và xã hội.
1.5.2 Các lợi ích trực tiếp của nông lâm kết hợp
Cung cấp lương thực và thực phẩm: Nhiều mô hình nông lâm kết hợp được hình thành và phát triển nhằm vào mục đích sản xuất nhiều loại lương thực thực phẩm, có giá trị dinh dưỡng cao đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình. Điển hình là hệ thống VAC được phát triển rộng rãi ở nhiều vùng nông thôn ở nước ta. Ưu điểm của các hệ thống nông lâm kết hợp là có khả năng tạo ra sản phẩm lương thực và thực phẩm đa dạng trên một diện tích đất mà không yêu cầu đầu vào lớn.
Các sản phẩm từ cây thân gỗ: Việc kết hợp cây thân gỗ trên nông trại có thể tạo ra nhiều sản phẩm như gỗ, củi, ti