Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, tri thức, kỹnăng,
kỹxảo là những yếu tố đóng vai trò rất quan trọng trong sựphát triển của con
người. Tri thức, kỹnăng, kỹxảo của người lao động được trang bịtrong quá
trình giáo dục nghềnghiệp. Điều 33 của Luật giáo dục năm 2005 nêu rõ “Mục
tiêu của giáo dục nghềnghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức, kỹnăng
nghềnghiệp ởcác trình độkhác nhau, có đạo đức, lương tâm nghềnghiệp, ý
thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho
người lao động có khảnăng tìm việc làm, tựtạo việc làm hoặc tiếp tục học tập
nâng cao trình độchuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
– xã hội, củng cốquốc phòng, an ninh. Trung cấp chuyên nghiệp nhằm đào
tạo người lao động có kiến thức, kỹnăng thực hành cơbản của một nghề, có
khảnăng làm việc độc lập và có tính sáng tạo, ứng dụng công nghệvào công
việc”(trang 79-80). Trong thực tế, ở bất cứ lĩnh vực nào, khi đào tạo con
người lao động, không những phải quan tâm tới trang bị kiến thức mà còn
phải tạo cho họmột kỹnăng làm việc. Mỗi ngành, mỗi việc có những kỹnăng
riêng.Trong lĩnh vực đào tạo sưphạm, bất kỳmột quá trình dạy học nào đều
dẫn đến câu hỏi “Chúng ta cần dạy cái gì hoặc cần học cái gì ?. Chúng ta cần
dạy lý thuyết gì ?; Cần dạy kỹnăng gì ?;
112 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4859 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của học sinh trường trung cấp sư phạm mầm non Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn thạc sỹ Tâm lý học
ĐỀ TÀI “ Nghiên cứu kỹ năng tổ chức trò
chơi toán học của học sinh Trường
Trung cấp Sư phạm Mầm non Thái
Bình”
2
MỤC LỤC
Trang
Phần thứ nhất: Những vấn đề chung 1
1 Lý do chọn đề tài 1
2 Mục đích nghiên cứu 3
3 Đối tượng nghiên cứu 3
4 Khách thể nghiên cứu 3
5 Giả thuyết nghiên cứu 3
6 Nhiệm vụ của đề tài 3
7 Phạm vi nghiên cứu 3
8 Phương pháp nghiên cứu 4
Phần thứ hai: Nội dung nghiên cứu 5
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài 5
1.1 Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
1.1.1 Trên thế giới 5
1.1.2 ở Việt Nam 8
1.2 Một số khái niệm cơ bản 10
1.2.1 Kỹ năng và các giai đoạn hình thành kỹ năng 10
1.2.1.1 Khái niệm kỹ năng 10
1.2.1.2 Các giai đoạn hình thành kỹ năng 12
1.2.1.3 Các cấp độ hình thành kỹ năng 13
1.2.2 Kỹ năng tổ chức 15
1.2.3 Biểu tượng toán học 19
1.2.4 Trò chơi 21
1.2.5 Trò chơi toán học 22
1.3 Đặc điểm nhận thức của giáo sinh trường trung học sư phạm
mầm non Thái bình
24
1.4 Đặc điểm nhận thức các biểu tượng toán học của trẻ mẫu
giáo 5 – 6 tuổi
26
1.5 Kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5 – 6 tuổi của giáo
sinh trường trung học sư phạm mầm non Thái Bình
28
1.5.1 Khái niệm kỹ năng tổ chức trò chơi toán học 28
1.5.2 Quy trình tổ chức hướng dẫn trò chơi học tập 30
1.5.3 Quy trình hướng dẫn trò chơi toán học 31
1.5.4 Quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của
giáo sinh
32
1.6 Các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của giáo sinh đang
thực hiện
34
Kết luận chương 1 42
3
Chương 2: Tổ chức nghiên cứu 43
21. Mẫu khách thể nghiên cứu 43
2.2 Nội dung nghiên cứu 43
2.2.1 5 trò chơi toán học cho trẻ 5 – 6 tuổi 44
2.2.2 Nội dung đánh giá thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán
học của giáo sinh
49
2.2.3 Nội dung thực nghiệm 52
2.2.3.1 Giả thuyết nghỉên cứu 52
2.3.2.2 Tổ chức thực nghiệm 55
2.3. Phương pháp nghiên cứu 57
2.3.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận 57
2.3.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 57
2.3.2.1 Phương pháp điều tra viết 57
2.3.2.2 Phương pháp quan sát 58
2.3.2.3 Phương pháp trò chuyện phỏng vấn 59
2.3.2.4 Phương pháp thực nghiệm 59
2.3.2.5 Phương pháp xử lý số liệu 61
2.4 Tiến độ thời gian thực hiện đề tài 62
Chương 3: Kết quả nghiên cứu 64
3.1 Thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5 – 6
tuổi của giáo sinh
64
3.1.1 Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần nhận thức 64
3.1.2 Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần thiết kế 66
3.1.3 Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần kết cấu 69
3.1.4 Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần thực hiện nhiệm
vụ
71
3.1.5 Thực trạng các kỹ năng thuộc thành phần giao tiếp 74
3.2 Kết quả thực nghiệm 81
3.2.1 So sánh kết quả trước thực nghiệm của 2 nhóm đối chứng và
thực nghiệm
81
3.2.2 So sánh kết quả trước và sau thực nghiệm của nhóm đối
chứng
83
3.2.3 So sánh kết quả trước và sau thực nghiệm của nhóm thực
nghiệm
85
3.2.4 So sánh kết quả sau thực nghiệm của nhóm đối chứng và
nhóm thực nghiệm
87
3.3 Kết luận chương 3 90
Kết luận và kiến nghị 92
Tài liệu tham khảo 96
Phụ lục 100
4
Lời cám ơn
Em xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong khoa Tâm lý học Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã dạy dỗ em trong suốt quá trình học
tập Cao học.
Em xin bày tò lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Sinh Phúc
người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và động viên em trong suốt quá
trình thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn các đồng nghiệp ở trường Trung cấp Sư phạm Mầm non
Thái Bình và các em học sinh của trường đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn thầy cô và gia đình, bạn bè thân thiết đã động viên và
giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tác giả
Nguyễn Thị Tuyết
5
Những chữ viết tắt trong luận văn
1. CSGD Chăn sóc giáo dục
2. ĐC Đối chứng
3. g giỏi
4. k kém
5. kh Khá
6. MG Mẫu giáo
7. tb Trung bình
8. TN Thực nghiệm
9. TCTH Trò chơi toán học
10. TCSP Trung cấp sư phạm
6
Lời cam đoan
Luận văn thạc sỹ Tâm lý học với đề tài “ Nghiên cứu kỹ năng tổ chức trò
chơi toán học của học sinh Trường Trung cấp Sư phạm Mầm non Thái
Bình” được tác giả nghiên cứu trên học sinh khoá 12 Trường Trung cấp Sư
phạm Mầm non Thái Bình.
Kết quả, số liệu nghiên cứu được trình bày trong luận văn là hoàn toàn
trung thực. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Những kết
quả nghiên cứu này chưa từng được công bố trong bất cứ một công trình khoa
học nào.
Người cam đoan
Nguyễn Thị Tuyết
7
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do lý luận
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo là những yếu tố đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của con
người. Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động được trang bị trong quá
trình giáo dục nghề nghiệp. Điều 33 của Luật giáo dục năm 2005 nêu rõ “Mục
tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý
thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho
người lao động có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học tập
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
– xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Trung cấp chuyên nghiệp nhằm đào
tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng thực hành cơ bản của một nghề, có
khả năng làm việc độc lập và có tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công
việc”(trang 79-80). Trong thực tế, ở bất cứ lĩnh vực nào, khi đào tạo con
người lao động, không những phải quan tâm tới trang bị kiến thức mà còn
phải tạo cho họ một kỹ năng làm việc. Mỗi ngành, mỗi việc có những kỹ năng
riêng.Trong lĩnh vực đào tạo sư phạm, bất kỳ một quá trình dạy học nào đều
dẫn đến câu hỏi “Chúng ta cần dạy cái gì hoặc cần học cái gì ?. Chúng ta cần
dạy lý thuyết gì ?; Cần dạy kỹ năng gì ?; Cái gì thuộc về thái độ ?”. Hành
trang của các thầy cô giáo tương lai là tri thức, kỹ năng và thái độ, kỹ năng ở
đây là kỹ năng giảng dạy và kỹ năng tổ chức các hoạt động. Tri thức và thái
độ là những lĩnh vực đã được rất nhiều người nghiên cứu còn kỹ năng từ lâu
đã được nhiều nhà tâm lý học và giáo dục học quan tâm, nhưng đến nay đề
tài về kỹ năng vẫn còn rất khiêm tốn so với các loại đề tài khác, đặc biệt là kỹ
8
năng tổ chức các hoạt động, các trò chơi ở ngành học mầm non chưa được
nghiên
cứu nhiều.
Trong lĩnh vực giáo dục mầm non, không một nhà nghiên cứu nào bỏ
qua vấn đề hoạt động chơi của trẻ, tất cả đã khẳng định rằng hoạt động chơi là
hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi mầm non. Nhà giáo dục học nổi tiếng A.X.
Macarencô nhấn mạnh ý nghĩa đặc biệt của trò chơi. Ông nhìn nhận trò chơi ở
nhiều khía cạnh khác nhau và trước tiên là trong việc chuẩn bị cho đứa trẻ
bước vào cuộc sống, vào hoạt động lao động. Theo ông trò chơi có ý nghĩa
lớn trong cuộc sống đứa trẻ. Đứa trẻ trong trò chơi như thế nào nó sẽ như thế
trong công việc sau này khi lớn lên. Trong giai đoạn hiện nay các nhà giáo
dục học mầm non đều đã đi đến thống nhất và khẳng định rằng: trong trò chơi
bộc lộ khả năng tư duy, tưởng tượng, tình cảm, tính tích cực, nhu cầu giao
tiếp, tính đoàn kết, kỷ luật... Trò chơi là xã hội thu nhỏ của trẻ. Trong khi chơi
trẻ vừa sáng tạo, vừa học hỏi, vừa củng cố kiến thức đã lĩnh hội trước đó.
1.2. Lý do thực tiễn
Là nơi đào tạo ra giáo viên mầm non tương lai, vấn đề rèn kỹ năng cho
học sinh là vấn đề then chốt của các trường sư phạm mầm non. Trong các tổ
hợp kỹ năng sư phạm thì kỹ năng tổ chức trò chơi là kỹ năng rất quan trọng
đối với các cô giáo mầm non tương lai vì giáo dục trẻ mầm non luôn đứng
trên quan điểm “Học bằng chơi, chơi mà học” .
Qua nhiều năm giảng dạy môn “Phương pháp hướng dẫn hình thành
biểu tượng toán ban đầu cho trẻ mầm non “, qua các buổi kiến tập, thực tập ở
các trường mầm non chúng tôi thấy các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của
học sinh còn yếu. Do vậy cần phải có những biện pháp tâm lý-giáo dục nhằm
góp phần nâng cao và hoàn thiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho học
sinh.
9
Xuất phát từ các lý do trên chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu kỹ năng
tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5-6 tuổi của học sinh trường TCSP mầm non
Thái Bình”
10
2 . Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và một số biện pháp nhằm hình
thành, nâng cao, hoàn thiện kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5-6 tuổi
của học sinh trường TCSP mầm non Thái Bình .
3 . Đối tượng nghiên cứu
Các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5-6 tuổi của học sinh trường
trung cấp sư phạm mầm non Thái Bình.
4. Khách thể nghiên cứu
107 học sinh hệ 12+2 khoá 2004 – 2006 là khách thể chính
27 giáo viên trường TCSP mầm non Thái Bình và giáo viên mầm non ở các
trường mầm non có học sinh thực tập
500 trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
5. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình đào tạo, nếu học sinh được trang bị đầy đủ, có hệ thống
kiến thức về kỹ năng tổ chức trò chơi toán học và được các giáo viên sư
phạm, thực hành kiểm tra đều đặn thì sẽ thu được kết quả là học sinh có khả
năng tổ chức tốt trò chơi toán học, tạo cho trẻ hứng thú toán học cao.
6. Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát hoá những vấn đề lý luận về kỹ năng, kỹ năng tổ chức, kỹ năng tổ
chức trò chơi toán học, trò chơi, trò chơi toán học, biểu tượng toán.
- Điều tra thực trạng kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho trẻ 5 – 6 tuổi của
học sinh trường TCSP mầm non Thái Bình
- Áp dụng một số biện pháp hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho
trẻ 5 –6 tuổi của học sinh trường TCSP mầm non Thái Bình .
7. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu ở học sinh, giáo viên trường TCSP mầm non
Thái Bình và giáo viên mầm non, trẻ 5-6 tuổi ở tỉnh Thái Bình
11
8. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ đề tài, sử dụng hệ thống các phương pháp sau :
8.1: Phương pháp nghiên cứu tài liệu
8.2: Phương pháp điều tra viết
8.3: Phương pháp quan sát
8.4: Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn
8.5: Phương pháp thực nghiệm : Đề tài đưa ra giả thuyết
“Nếu học sinh được trang bị các kỹ năng tổ chức trò chơi toán học một
cách có hệ thống và được bồi dưỡng quy trình tổ chức trò chơi toán học
trước khi đi thực tập tốt nghiệp thì kết quả tổ chức trò chơi toán học ở
học sinh và trẻ được nâng lên “.
8.6: Các kết quả được xử lý bằng phương pháp thống kê toán học.
- Sử dụng công thức tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, hệ số tương
quan, hệ số khác biệt giữa các nhóm đại lượng.
- Số liệu được tính bằng phần mềm Exell
12
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới :
Ngay từ khi xuất hiện loài người, con người đã biết truyền những kinh
nghiệm lao động của mình từ thế hệ này cho thế hệ sau. Lúc đầu, khi hình
thức lao động còn thô sơ, người lớn trực tiếp truyền kinh nghiệm của mình
cho trẻ trong quá trình lao động cùng nhau. Sau dần, khi công cụ lao động
phức tạp dần lên, trẻ không thể trực tiếp tham gia vào quá trình lao động,
người lớn đã làm những đồ dùng thu nhỏ giống như công cụ lao động để cho
trẻ luyện tập. Như vậy, việc rèn kỹ năng lao động xuất hiện cùng với lịch sử
xuất hiện loài người. Tầm quan trọng của kỹ năng lao động đã được nhiều nhà
triết học cổ đại đề cập đến. Nhà bác học lỗi lạc Hy Lạp cổ đại Arixtốt trong
cuốn “Bàn về tâm hồn” cuốn sách đầu tiên của loài người về tâm lý học đã
đặc biệt quan tâm đến phẩm hạnh của con người. Theo ông, nội dung của
phẩm hạnh đó là “ Biết định hướng, biết làm việc, biết tìm tòi “Có nghĩa là
con người có phẩm hạnh là con người phải có kỹ năng làm việc [21]. Vấn đề
kỹ năng còn được nhiều nhà triết học Phương Tây và Trung Hoa cổ đại
nghiên cứu, nhưng được nghiên cứu nhiều nhất là từ khi ngành tâm lý học ra
đời.
Nhìn tổng thể, việc nghiên cứu kỹ năng được xuất phát từ hai quan
điểm trái ngược nhau, đó là:
- Nghiên cứu kỹ năng trên cơ sở của tâm lý học hành vi mà đại diện là các
nhà tâm lý học như: J.B. Oatsơn; B.F. Skinnơ... Họ nghiên cứu chủ yếu các
hành vi và kỹ năng của động vật từ đó suy ra các hành vi và kỹ năng của con
người.
- Nghiên cứu kỹ năng trên cơ sở hoạt động mà đại diện là các nhà tâm lý học
13
Liên Xô. Điểm qua lịch sử nghiên cứu kỹ năng của các nhà tâm lý học, giáo
dục học Xô Viết cho thấy có hai hướng chính sau:
Hướng thứ nhất: Nghiên cứu kỹ năng ở mức độ khái quát, đại cương.
Đại diện cho hướng nghiên cứu này có các tác giả: A.G. Côvaliôv; V.X.
Kyzin; A.V. Pêtrôvxki... Các tác giả này đi sâu nghiên cứu bản chất khái niệm
kỹ năng, các quy luật hình thành và mối liên hệ giữa kỹ năng, kỹ xảo [4].
Hướng thứ hai: Nghiên cứu kỹ năng ở mức độ cụ thể trong các lĩnh vực
khác nhau, chẳng hạn:
- Trong lĩnh vực lao động công nghiệp: V.V. Tsebưseva; K.K. Platônôv.
Các tác giả nghiên cứu kỹ năng trong mối quan hệ giữa con người với
máy móc, công cụ, phương tiện lao động [25].
- Trong lĩnh vực hoạt động sư phạm, hoạt động lao động có các tác phẩm
của các tác giả như: N.D. Lêvitôv; X.I. Kixegôv; G.X.Kaxchuc [12].
- Trong lĩnh vực hoạt động tổ chức sư phạm được đề cập trong các nghiên
cứu của N.V. Kuzmina ; L.T. Tiuptia... [35]
Mặc dù các hướng nghiên cứu khác nhau nhưng nhìn chung, các tác giả
không có những quan điểm trái ngược nhau về khái niệm kỹ năng mà những
quan điểm đó thường bổ sung cho nhau.
Về hoạt động tổ chức và kỹ năng tổ chức được nhiều tác giả chú ý tới.
Đầu thế kỷ XX, F.W. Taylo cùng các đồng sự cho rằng tổ chức càng hoạch
định, và thực hiện càng hợp lý bao nhiêu thì càng có khả năng phát triển để
tạo lên hiệu quả bấy nhiêu và kết quả là sản xuất phát triển. Quan điểm này
cho ta thấy vai trò của việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch trong hoạt
động tổ chức.
Người đặt nền móng cho việc nghiên cứu hoạt động tổ chức và kỹ năng
tổ chức là nhà giáo dục học nổi tiếng L.I. Umanxki. Ông đã nêu rõ khái niệm
tổ chức, chỉ rõ cấu trúc hoạt động tổ chức trong tác phẩm “Tâm lý và giáo dục
của công tác tổ chức“. Kết quả nghiên cứu của ông được vận dụng cho việc
14
nghiên cứu hoạt động tổ chức, kỹ năng tổ chức trong các lĩnh vực khác nhau
[39].
N.V. Kuzmina đưa ra cấu trúc tâm lý hoạt động của người giáo viên,
trong đó bà cho rằng “Hoạt động tổ chức là thành phần tất yếu trong hoạt
động sư phạm“. Tác giả đã đề cập đến kỹ năng tổ chức với tư cách là hoạt
động độc lập tương đối. Hoạt động tổ chức bao gồm nhiều khâu, nhiều giai
đoạn, là hoạt động chuyên biệt của người đứng đầu tập thể nhưng không tách
khỏi các hoạt động khác như lao động, học tập do tập thể tiến hành. Tác giả
đã nghiên cứu kỹ năng tổ chức các hoạt động của sinh viên và chỉ ra một số
kỹ năng chủ đạo trong hệ thống kỹ năng tổ chức [35]. Về hoạt động tổ chức
cũng như kỹ năng tổ chức còn được nhiều tác giả quan tâm như: B.M. Teplôv;
N.D. Lêvitôv; A.I. Serbacôv ....
Trò chơi có ngay từ thời cổ đại. Các nhà triết học đã nhìn thấy vai trò
của trò chơi trẻ em. Một trong những nhà triết học lớn nhất thời cổ đại là
Platon khi phân chia các giai đoạn trong hệ thống giáo dục đã cho rằng, trẻ từ
3- 4 tuổi được giáo dục tại gia đình, trẻ chơi những trò chơi cùng nhau dưới
sự hướng dẫn của phụ nữ. Ông khuyên “Đừng ép buộc, cưỡng bức dạy trẻ nhỏ
những kiến thức khoa học mà thông qua trò chơi, khi đó anh dễ nhìn thấy trẻ
hướng về cái gì”.
Quan điểm bản chất xã hội của trò chơi, người đầu tiên đưa ra quan
điểm này là nhà triết học người Đức V. Vunt. Ông viết: “Trò chơi đó là lao
động của trẻ nhỏ, không có một trò chơi nào lại không có trong mình một
nguyên mẫu, một dạng lao động nghiêm túc”[2].
G.V. Plêkhanôv đã khẳng định trò chơi xuất hiện trước lao động và trên
cơ sở của lao động. Ông cho rằng trò chơi là một hoạt động phản ánh, thông
qua trò chơi, trẻ có thể lĩnh hội những kỹ năng lao động, thói quen và các
nguyên tắc ứng xử của người lớn trong xã hội. Từ đó, ông đi đến kết luận:
15
“Trò chơi mang bản chất xã hội, nó xuất hiện để đáp ứng với xã hội mà trẻ
đang sống và nhu cầu được trở thành thành viên tích cực của xã hội đó” [2].
Người có công lớn đặt nền móng cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu trò
chơi là nhà tâm lý học Xô Viết L.X.Vưgôtxki. Ông đã khởi xướng xây dựng
một học thuyết mới về tâm lý học trẻ em nói chung và về trò chơi nói riêng.
Những luận điểm cơ bản trong học thuyết Vưgôtxki về trò chơi bao gồm
những vấn đề sau [33]:
- Khẳng định bản chất xã hội và tính hiện thực của trò chơi trẻ em.
- Khẳng định vai trò trung tâm của trò chơi trẻ em đối với sự phát triển
tâm lý trẻ.Trò chơi chính là động lực phát triển và tạo ra “vùng phát triển
gần”.
- Trò chơi trẻ em không nảy sinh một cách tự phát mà do ảnh hưởng có ý
thức và không có ý thức từ phía người lớn xung quanh.
- Sự cần thiết phải vận dụng phương pháp phân tích, xác định “cấu trúc
đơn vị” của C.Mác vào nghiên cứu các chức năng tâm lý, trong đó có
việc nghiên cứu trò chơi.
- Không nên dừng lại ở nghiên cứu quan sát mà cần thiết phải tổ chức các
nghiên cứu thực nghiệm về trò chơi.
Đây là những luận điểm rất quan trọng cho việc hình thành hệ thống giáo dục
mầm non của Liên Xô những năm trước đây [28].
Như vậy trên thế giới vấn đề kỹ năng tổ chức trò chơi đã có từ rất sớm và
ngày càng được nhiều người quan tâm, nghiên cứu . Hướng mới nhất hiện
nay các nhà nghiên cứu đang chú trọng đến là hoàn thiện các kỹ năng tổ
chức những trò chơi đa dạng mang tính tích hợp các môn học để tạo cho
trẻ nhỏ những hứng thú nhận thức trong quá trình chơi.
1.1.2. Ở Việt Nam
Vấn đề nghiên cứu kỹ năng đã được các nhà tâm lý học quan tâm nhiều.
Nguyễn Đức Minh và các cộng sự đã đưa ra 87 kỹ năng giảng dạy của người
16
giáo viên trong cuốn “Một số vấn đề tâm lý học sư phạm và lứa tuổi học sinh
Việt Nam”- Nhà xuất bản giáo dục 1975 [12].
Nghiên cứu kỹ năng lao động có Trần Trọng Thuỷ, Đỗ Huân, Vũ Hữu ..
Nghiên cứu kỹ năng sư phạm có các tác giả Nguyễn Như An, Nguyễn Quang
Uẩn, Ngô Công Hoàn ...
Lê Văn Hồng và các cộng sự đã đưa ra các giai đoạn hình thành kỹ năng của
học sinh phổ thông [7]
Nghiên cứu kỹ năng tổ chức trò chơi có các tác giả như : Trần Quốc Thành
với đề tài “Kỹ năng tổ chức trò chơi của chi đội trưởng chi đội thiếu niên tiền
phong Hồ Chí Minh”. Hoàng Thị Oanh với đề tài “ Kỹ năng tổ chức trò chơi
phân vai có chủ đề cho trẻ 3 – 4 tuổi, 5 – 6 tuổi của sinh viên trường cao đẳng
nhà trẻ – mẫu giáo [17,18].
Nghiên cứu kỹ năng giao tiếp có Nguyễn Thạc, Hoàng Anh ...
Trong lĩnh vực giáo dục mầm non đã có nhiều công trình nghiên cứu về trò
chơi. Điển hình là các tác giả với các tác phẩm sau:
Nguyễn Thị Ngọc Chúc với tác phẩm “ Hướng dẫn tổ chức hoạt động
vui chơi “ [2]. Tác giả đã đề cập đến các loại trò chơi, mức độ các mối quan
hệ trong trò chơi. Đó là: chơi không có tổ chức, chơi một mình, chơi cạnh
nhau, chơi với nhau trong một thời gian ngắn, chơi với nhau lâu trên cơ sở
hứng thú với nội dung chơi. Tác giả đã khẳng định kết quả của 2 mức độ cuối
phụ thuộc vào kỹ năng hướng dẫn trẻ chơi của mỗi giáo viên [2].
Các công trình nghiên cứu của Nguyễn Ánh Tuyết với rất nhiều tác
phẩm như: “Giáo dục trẻ mẫu giáo trong nhóm bạn bè“; “Tâm lý học trẻ em
trước tuổi đi học“; “Tâm lý học trẻ em“ ... Tác giả đã phân tích rất cụ thể bản
chất xã hội của trò chơi, cấu trúc, đặc điểm hoạt động chơi của trẻ [29,30].
Đặc biệt các công trình nghiên cứu của Hoàng Thị Oanh về kỹ năng tổ
chức trò chơi đóng vai có chủ đề của sinh viên trường cao đẳng nhà trẻ –mẫu
giáo, tác giả đã thử nghiệm và đi đến kết luận “Để tổ chức tốt trò chơi đóng
17
vai có chủ đề cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi và 4-5 tuổi học sinh phải có tối thiểu
20 kỹ năng”. Để tổ chức tốt trò chơi đóng vai có chủ đề cho trẻ 5-6 tuổi học
sinh cần có tối thiểu 28 kỹ năng [17,18]. Đối với trò chơi toán học đã có một