Miền núi phía Bắc là vùng rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế, quốc phòng an ninh và cân bằng hệ sinh thái cho Việt Nam. Tuy nhiên đây là một trong những vùng nghèo nhất ở nước ta. Có nhiều nguyên nhân gây ra tỷ lệ nghèo cao trong vùng như sự ngăn cách về địa lý, sự bất bình đẳng về giới, sự hạn chế trong sự tiếp cận các dịch vụ như khuyến nông, phát triển giáo dục, y tế cũng như tiếp cận các cơ hội thị trường để phát triển kinh tế (CARE international in Viet Nam, 2010) [27]. Nhưng những tác động bất lợi của hiện tượng thời tiết khí hậu và biến đổi khí hậu trong những năm gần đây được xác định là một nguyên nhân cản trở sự phát triển kinh tế xã hội của người dân trong vùng. Đặc điểm của vùng đồi núi này là có hệ sinh thái không đồng nhất và dễ bị thay đổi, nạn phá rừng nghiệm trọng và suy giảm tài nguyên đất. Người dân đang phải sống trong một môi trường đang ngày một biến đổi nhanh chóng gây ra bởi những thay đổi đáng kể của khí hậu trong thời gian gần đây. Các yếu tố vật lý của môi trường khu vực miền núi phía bắc chẳng hạn như: khí hậu, đất, nước, địa hình và các yếu tố sinh học, thảm thực vật và động vật, đang bị ảnh hưởng bởi những thay đổi bất thường như sự tăng lên hoặc giảm nhiệt độ, những trận bão bất thường, và những trận mưa lớn chưa từng có (CARE international in Viet Nam, 2010) [27]. Chính vì vậy sản phẩm nông lâm nghiệp của họ thường gặp phải nhiều rủi ro do những biến đổi bất lợi của thời tiết khí hậu.
Bắc Kạn là một trong những tỉnh nghèo nhất nằm ở trung tâm miền núi phía bắc Việt Nam đã và đang được tổ chức CARE quốc tế tại Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ triển khai nhiều dự án phát triển liên quan đến xóa đói giảm nghèo, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và giảm thiểu tác động xấu của biến đổi khí hậu. Trong 5 năm gần đây Bắc Kạn là một trong những tỉnh bị thiệt hại lớn trong sản xuất nông nghiệp do sự xuất hiện của thời hiện tượng tiết khí hậu cực đoan (CARE international in Viet Nam, 2010) [27].
68 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2254 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu một số mô hình sản xuất nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu dựa vào kiến thức bản địa ở xã Thanh Vận huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Miền núi phía Bắc là vùng rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế, quốc phòng an ninh và cân bằng hệ sinh thái cho Việt Nam. Tuy nhiên đây là một trong những vùng nghèo nhất ở nước ta. Có nhiều nguyên nhân gây ra tỷ lệ nghèo cao trong vùng như sự ngăn cách về địa lý, sự bất bình đẳng về giới, sự hạn chế trong sự tiếp cận các dịch vụ như khuyến nông, phát triển giáo dục, y tế cũng như tiếp cận các cơ hội thị trường để phát triển kinh tế (CARE international in Viet Nam, 2010) [27]. Nhưng những tác động bất lợi của hiện tượng thời tiết khí hậu và biến đổi khí hậu trong những năm gần đây được xác định là một nguyên nhân cản trở sự phát triển kinh tế xã hội của người dân trong vùng. Đặc điểm của vùng đồi núi này là có hệ sinh thái không đồng nhất và dễ bị thay đổi, nạn phá rừng nghiệm trọng và suy giảm tài nguyên đất. Người dân đang phải sống trong một môi trường đang ngày một biến đổi nhanh chóng gây ra bởi những thay đổi đáng kể của khí hậu trong thời gian gần đây. Các yếu tố vật lý của môi trường khu vực miền núi phía bắc chẳng hạn như: khí hậu, đất, nước, địa hình và các yếu tố sinh học, thảm thực vật và động vật, đang bị ảnh hưởng bởi những thay đổi bất thường như sự tăng lên hoặc giảm nhiệt độ, những trận bão bất thường, và những trận mưa lớn chưa từng có (CARE international in Viet Nam, 2010) [27]. Chính vì vậy sản phẩm nông lâm nghiệp của họ thường gặp phải nhiều rủi ro do những biến đổi bất lợi của thời tiết khí hậu.
Bắc Kạn là một trong những tỉnh nghèo nhất nằm ở trung tâm miền núi phía bắc Việt Nam đã và đang được tổ chức CARE quốc tế tại Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ triển khai nhiều dự án phát triển liên quan đến xóa đói giảm nghèo, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và giảm thiểu tác động xấu của biến đổi khí hậu. Trong 5 năm gần đây Bắc Kạn là một trong những tỉnh bị thiệt hại lớn trong sản xuất nông nghiệp do sự xuất hiện của thời hiện tượng tiết khí hậu cực đoan (CARE international in Viet Nam, 2010) [27].
Cộng đồng người dân ở Bắc Kạn nói riêng và miền núi phía bắc Việt Nam nói chung có vốn kiến thức truyền thống và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp giúp họ linh hoạt hơn với những thay đổi khắc nghiệt trong môi trường sống. Nhiều cộng đồng bản địa là dân tộc thiểu số ở Bắc Kạn đã có rất nhiều kinh nghiệm trong canh tác nông nghiệp bền vững và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Những kiến thức và các kỹ thuật bản địa này đã được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong từng cộng đồng dân tộc thiểu số.
Xuất phát từ thực tế nói trên và nguyện vọng của bản thân cùng với sự đồng ý của Ban giám hiệu nhà trường, Trung tâm nghiên cứu và phát triển nông lâm nghiệp miền núi - ADC, Ban chủ nhiệm khoa Tài nguyên và Môi trường - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo PGS.TS Đàm Xuân Vận em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu một số mô hình sản xuất nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu dựa vào kiến thức bản địa ở xã Thanh Vận huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn”
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Giảm thiểu các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp của đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Bắc Kạn.
- Xác định các biểu hiện của biến đổi khí hậu và tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp.
- Xây dựng các mô hình cây trồng thích ứng với các HTTTCĐ và biến động của thời tiết khí hậu dựa vào kiến thức bản địa của các cộng đồng dân tộc thiểu số trong vùng nghiên cứu.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định các biểu hiện của biến đổi khí hậu và tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp.
- Tài liệu hóa các kiến thức và kỹ thuật bản địa của cộng đồng trong dự đoán, ứng phó và thích ứng với các hiện tượng thời tiết cực đoan (HTTTTCĐ) và biến động của thời tiết khí hậu trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
- Phân tích sự hỗ trợ của chính quyền các cấp nhằm thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu trong sản xuất nông nghiệp ở địa bàn nghiên cứu thông qua việc phân tích các chính sách liên quan.
- Theo dõi khả năng thích ứng của các mô hình.
1.4. Yêu cầu của đề tài
- Số liệu thu thập phải trung thực, khách quan, chính xác.
- Xây dựng các mô hình có tính khả thi và phù hợp với điều kiện hoàn cảnh địa phương.
1.5. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
+ Nâng cao kiến thức, kỹ năng và rút ra những kinh nghiệm thực tế phục vụ cho công tác nghiên cứu sau này.
+ Vận dụng và phát huy được các kiến thức đã học tập và nghiên cứu.
+ Nâng cao khả năng tự học tập, nghiên cứu và tìm tài liệu tham khảo
Ý nghĩa trong thực tiễn
+ Xây dựng các mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế nông nghiệp.
+ Giảm thiểu những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới môi trường.
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Biến đổi khí hậu
2.1.1.1. Khái niệm
Biến đổi khí hậu là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người. (Liên Hiệp Quốc, 1992) [5].
Theo quan điểm của Tổ chức khí tượng thế giới, BĐKH là sự vận động bên trong của hệ thống khí hậu, do những thay đổi kết cấu hệ thống hoặc trong mối quan hệ tương tác giữa các thành phần của nó do các ngoại lưu hoặc do các hoạt động của con người
2.1.1.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6.
- CO2 phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO2 cũng sinh ra từ các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.
- CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
- N2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
- HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất HCFC-22.
- PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
- SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
2.1.1.3. Một số biểu hiện của biến đổi khí hậu
- Sự nóng lên của khí quyển và Trái đất nói chung.
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên Trái đất.
- Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.
- Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của Trái đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người.
- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.
2.1.2. Thích ứng với biến đổi khí hậu
2.1.2.1. Khái niệm
Khí hậu đã và đang biến đổi và có những tác động tiềm tàng, bất lợi đến phát triển, vì thế sự thích ứng trở nên ngày càng quan trọng. Thích ứng là một khái niệm rất rộng và khi áp dụng vào lĩnh vực biến đổi khí hậu nó được dùng trong rất nhiều trường hợp.
Đối với IPCC (1996) cho rằng: Khả năng thích ứng đề cập đến mức độ điều chỉnh có thể trong hành động, xử lý, cấu trúc của hệ thống đối với những biến đổi dự kiến có thể xảy ra hay thực sự đã và đang xảy ra của khí hậu. Sự thích ứng có thể là tự phát hay được chuẩn bị trước. Như vậy, ở đây vấn đề thích ứng được nói đến chính là mức độ điều chỉnh với biến đổi cả về tính tự phát hay chuẩn bị trước.
Còn với nghiên cứu của Burton (1998) lại cho rằng: Thích ứng với khí hậu là một quá trình mà con người làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu đến sức khỏe, đời sống và sử dụng những cơ hội thuận lợi mà môi trường khí hậu mang lại. Ở đây thích ứng là làm thế nào giảm nhẹ tác động biến đổi khí hậu, tận dụng những thuận lợi nếu có thể.
Theo Thomas (2007), lại cho rằng: thích ứng có nghĩa là điều chỉnh hoặc thụ động, hoặc phản ứng tích cực, hoặc có phòng bị trước, được đưa ra với ý nghĩa là giảm thiểu và cải thiện những hậu quả có hại của BĐKH.
Như vậy, thích ứng với BĐKH là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con người đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi, nhằm mục đích giảm khả năng bị tổn thương do dao động và BĐKH hiện hữu hoặc tiềm tàng và tận dụng các cơ hội do nó mang lại. Thích ứng với khí hậu hiện nay không đồng nghĩa với thích nghi BĐKH trong tương lai.
2.1.2.2. Các hình thức thích ứng với biến đổi khí hậu
Có rất nhiều phương pháp thích nghi có khả năng được thực hiện trong việc đối phó với biến đổi khí hậu. Bản báo cáo đánh giá thứ 2 của nhóm công tác IPCC II đề cập và miêu tả 228 phương pháp thích nghi khác nhau. Vì thế sẽ có ích nếu phân loại các phương pháp thích nghi sử dụng một cấu trúc tổng quát. Một cách phân loại thường dùng chia các phương pháp thích nghi ra làm 8 nhóm :
- Chấp nhận tổn thất: là phương pháp thích nghi với biểu hiện cơ bản là không làm gì cả ngoại trừ chịu đựng hay chấp nhận tổn thất. Trên lý thuyết, chấp nhận tổn thất xảy ra khi phải chịu tác động mà không có khả năng chống chọi bằng bất cứ cách nào hay là ở những nơi mà phải trả cho các hoạt động thích nghi là cao so với rủi ro hay là những thiệt hại.
- Chia sẻ tổn thất: loại phản úng này liên quan đến việc chia sẻ những tổn thất giữa một cộng đồng dân cư lớn. Với một sự phân bố khác, các xã hội lớn chia sẻ những tổn thất thông qua cứu trợ cộng đồng, phục hồi và tái thiết thông qua viện trợ của các quỹ cộng đồng. Chia sẻ tổn thất cũng có thể được thực hiện thông qua bảo hiểm xã hội.
- Làm giảm sự nguy hiểm: một hiện tượng tự nhiên như là lụt bão hay hạn hán, những phương pháp thích hợp là gồm các công tác kiểm soát lũ lụt. Đối với BĐKH, điều chỉnh thích hợp làm chậm tốc độ BĐKH bằng cách giảm khí phát thải nhà kính và cuối cùng là ổn định nồng độ của khí nhà kính trong khí quyển.
- Ngăn chặn các tác động: thường xuyên sử dụng các phương pháp thích nghi từng bước một để ngăn chặn tác động của BĐKH và sự cố dao động khác.
- Thay đổi cách sử dụng: chỗ nào có hiểm họa của BĐKH thực sự tiến triển của các hoạt động kinh tế là không thể hoặc là quá mạo hiểm, sự tính toán có thể mang lại thay đổi và cách sử dụng.
- Thay đổi địa điểm: cần nghiên cứu tính toán kỹ việc di chuyển địa điểm sản xuất. Ví dụ, chuyển các cây trồng chủ chốt và vùng nông trại ra khỏi khu vực khô hạn đến một khu vực ôn hòa hơn.
- Nghiên cứu: Quá trình thích nghi có thể phát triển bằng cách nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ mới và phương pháp mới về thích nghi.
- Giáo dục, thông tin và khuyến khích thay đổi hành vi: phổ biến kiến thức thông qua các chiến dịch thông tin công cộng và giáo dục, dẫn đến việc thay đổi hành vi (Nguyễn Hồng Trường, 2008) [18].
Như vậy, sự thích ứng diễn ra cả ở trong tự nhiên và hệ thống kinh tế xã hội của con người. Thích ứng với BĐKH điều quan trọng chính là sự phù hợp với điều kiện tự nhiên và khả năng kinh tế, phong tục tập quán của con người ở mỗi vùng miền khác nhau. Do đó nghiên cứu ở đây chủ yếu là những hoạt động thực tiễn của nông hộ, những kiến thức bản địa được áp dụng trong điều kiện của vùng nghiên cứu.
2.1.3 . Kiến thức bản địa
2.1.3.1. Khái niệm
Kiến thức bản địa là hệ thống kiến thức bao trùm kiến thức kỹ thuật bản địa và kiến thức địa phương, nhưng được cụ thể hóa trong khía cạnh liên quan đến sinh thái, đến quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên: rừng, đất rừng, nguồn nước. Nó phản ánh những kiến thức kinh nghiệm của từng nhóm cộng đồng đang cùng sinh sống trong từng vùng sinh thái nhân văn, đây là hệ thống kiến thức kết hợp các hiểu biết bên trong lẫn bên ngoài, sự giao thoa kế thừa giữa kinh nghiệm của các dân tộc đang chung sống, sự kiểm nghiệm các kỹ thuật mới du nhập và sự thích ứng nó với điều kiện sinh thái địa phương.
Kiến thức bản địa, nói một cách rộng rãi, là tri thức được sử dụng bởi những người dân địa phương trong cuộc sống của một môi trường nhất định. Như vậy, kiến thức bản địa có thể bao gồm môi trường truyền thống, tri thức sinh thái, tri thức nông thôn và tri thức địa phương....
Theo Johnson, 1992, kiến thức bản địa là nhóm tri thức được tạo ra bởi một nhóm người qua nhiều thế hệ sống và quan hệ chặt chẻ với thiên nhiên trong một vùng nhất định. Nói một cách khái quát, kiến thức bản địa là những tri thức được rút ra từ môi trường địa phương, vì vậy nó gắn liền với nhu cầu của con người và điều kiện địa phương.
Kiến thức bản địa là tri thức của cộng đồng cư dân trong một cộng đồng nhất định phát triển vượt thời gian và liên tục phát triển. Kiến thức bản địa được hình thành dựa vào kinh nghiệm, thường xuyên kiểm nghiệm trong quá trình sử dụng, thích hợp với văn hóa và môi trường địa phương, năng động và biến đổi.
Tóm lại, Kiến thức bản địa là những nhận thức, những hiểu biết về môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường lao động và môi trường sinh sống được hình thành từ cộng đồng dân cư ở một nơi cư trú nhất định trong lịch sử tồn tại và phát triển của cộng đồng ấy. Do vậy, cần nghiên cứu các kiến thức bản địa thích ứng với các hiện tượng thời tiết cực đoan nhằm tăng khả năng ứng phó của người dân với biến đổi khí hậu trong sản xuất nông nghiệp.
2.1.3.2. Đặc trưng kiến thức bản địa
Kiến thức bản địa có những đặc trưng sau:
- Kiến thức bản địa được hình thành và biến đổi liên tục qua các thế hệ trong một cộng đồng địa phương nhất định.
- Kiến thức bản địa có khả năng thích ứng cao với môi trường riêng của từng địa phương - nơi đã hình thành và phát triển kiến thức đó.
- Kiến thức bản địa rất đơn giản, chi phí thấp và bền vững đối với điều kiện tự nhiên địa phương.
- Kiến thức bản địa do toàn thể cộng đồng trực tiếp sáng tạo ra qua lao động trực tiếp.
- Kiến thức bản địa không được ghi chép bằng văn bản cụ thể mà được lưu giữ bằng trí nhớ và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, thơ ca, hò vè, tế lễ và nhiều tập tục khác nhau.
- Kiến thức bản địa luôn gắn liền và hòa hợp với nền văn hóa, tập tục địa phương.
- Kiến thức bản địa có giá trị cao trong việc xây dựng các mô hình phát triển nông thôn bền vững.
- Tính đa dạng của kiến thức bản địa rất cao.
2.1.3.3. Các loại hình kiến thức bản địa
Kiến thức bản địa được phân chia theo các loại hình khác nhau. Theo IIRR, 1999, kiến thức bản địa có thể phân ra các loại hình như sau:
- Thông tin
Hệ thống thông tin về cây cỏ, thực vật có thể được trồng trọt hay canh tác tốt cùng tồn tại với nhau trên cùng một diện tích canh tác nhất định hay những chỉ số về thực vật. Các câu chuyện, thông điệp được truyền lại bằng các vết đục, chạm khắc hay viết trên các thẻ trúc (Trung quốc, Việt nam, Thái lan...), các dạng lưu truyền dân gian, hệ thống trao đổi thông tin truyền thống.
- Kỹ thuật công nghệ
Kiến thức bản địa bao gồm kỹ thuật về trồng trọt và chăn nuôi, và phương pháp lưu trữ giống, chế biến thức ăn, kỹ năng chữa bệnh cho người và gia súc, gia cầm.
- Tín ngưỡng
Tín ngưỡng có thể đóng vai trò cơ bản trong sinh kế, chăm sóc sức khỏe và quản lý môi trường của con người. Những cánh rừng thiêng (rừng ma) được bảo vệ với những lý do tôn giáo. Những lý do này có thể duy trì những lưu vực rộng lớn đầy sức sống. Những lễ hội tôn giáo có thể là cơ hội bổ sung thực phẩm, dinh dưỡng cho những cư dân địa phương khi mà khẩu phần thường nhật của họ là rất ít ỏi.
- Công cụ
Kiến thức bản địa được thể hiện ở những công cụ lao động trang bị cho canh tác và thu hoạch mùa màng. Công cụ nấu nướng cũng như sự thực hiện các hoạt động đi kèm.
- Vật liệu
Kiến thức bản địa được thể hiện với vật liệu xây dựng, vật liệu làm đồ gia dụng cũng như tiểu thủ công nghiệp truyền thống.
- Kinh nghiệm
Người nông dân thường tích lũy kinh nghiệm trong quá trình canh tác, giới thiệu các nguyên liệu giống mới cho hệ thống canh tác đặc hữu. Nhiều kết quả chữa bệnh đặc biệt được tích lũy qua kinh nghiệm sử dụng nguồn thực vật địa phương.
- Tài nguyên sinh học
Kiến thức bản địa được thể hiện thông qua quá trình chọn giống vật nuôi và các loại cây trồng.
- Tài nguyên nhân lực
Nhiều chuyên gia có chuyên môn cao như thầy lang, thợ rèn ... có thể coi như đại diện của dạng kiến thức bản địa. Kiến thức bản địa trong dạng này có thể thấy ở các tổ chức địa phương như nhóm họ tộc, hội đồng già làng trưởng tộc, các nhóm tổ chia sẻ hoặc đổi công.
- Giáo dục
Phương pháp truyền thụ kiến thức truyền thống, cách truyền nghề cho các thợ học việc, học hỏi thông qua sự quan sát và những thực nghiệm, thực hành tại chỗ.
2.1.3.4. Vai trò của kiến thức bản địa trong thích ứng với BĐKH
Chương trình mục tiêu quốc gia nhằm ứng phó với BĐKH đã chỉ rõ: Ứng phó với BĐKH là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị, của toàn xã hội, của các cấp, các ngành, các tổ chức, mọi người dân; trong nội dung huy động mọi tiềm năng có thể, thì việc khuyến khích áp dụng kiến thức bản địa trong thích ứng với BĐKH là một trong những hoạt động trong chiến lược ứng phó với BĐKH của các bộ ngành địa phương. Kiến thức bản địa (KTBĐ) là một kho tri thức quý giá của các cộng đồng dân cư bản địa tại một khu vực cụ thể nào đó; So với hệ thống kỹ thuật hiện đại (tạm gọi là hệ thống kỹ thuật nhập từ bên ngoài) thì KTBĐ có đặc điểm ưu việt không thể thay thế mà các hệ thống kỹ thuật nhập từ bên ngoài không có được, đó là: KTBĐ có khả năng thích ứng cao với môi trường của người dân bản địa- nơi mà chính những KTBĐ đó đã được hình thành, trải nghiệm và phát triển. Bởi KTBĐ là kết quả của sự quan sát, đúc rút kinh nghiệm từ thực tế sinh hoạt và trong sản xuất nông lâm nghiệp, trong quản lý tài nguyên và quản lý cộng đồng, được hình thành trực tiếp từ lao động của mọi người dân trong cộng đồng, dần được hoàn thiện và truyền thụ cho các thế hệ tiếp sau bằng truyền miệng (trong gia đình, trong thôn bản, hoặc thể hiện trong ca hát, ngạn ngữ, trường ca, tập tục). Vì vậy việc vận dụng kiến thức bản địa (bởi chính những người dân bản xứ là người hiểu và nắm bắt đặc điểm của địa phương sâu sắc nhất) trong thích ứng với môi trường đang biến đổi ngày một khắc nghiệt này là chìa khóa thành công đảm bảo duy trì một môi trường phát bền vững cho phát triển sinh kế.
2.1.3.5. Một số kiến thức bản địa của người dân trong sản xuất nông nghiệp thích ứng BĐKH
Thực chất khái nhiệm ứng phó và thích ứng với BĐKH là một cụm từ mới được đưa vào trong truyền thông và các hoạt động của các chương trình và dự án ở Việt Nam cũng như các tỉnh MNPB. Tuy nhiên bản chất các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu đã được hình thành, tích lũy và lưu truyền nhiều thế hệ trong các cộng đồng dân tộc thiếu số. Với đời sống phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp là chính nên KTBĐ trong sản xuất nông nghiệp được xác định là phong phú đa dạng và đang đóng một vai trò quan trọng trong phát triển một nền sản xuất nông nghiệp bền vững thích ứng với BĐKH ngày nay.
KTBĐ trong sản xuất nông nghiệp hiện nay được áp dụng phổ biến và nhiều nhất trong sản xuất nông nghiệp hiện nay là sử dụng các giống cây trồng và vật nuôi bản địa. Vũ Văn Liết và cs (2011) đã chỉ ra rằng cộng đồng người Thái ở MNPB hiện nay đang sử dụng rất phổ biến các giống bản địa bao gồm: 7 giống cây lương thực thực phẩm, 13 giống cây rau quả, 7 giống gia cầm và 9 giống gia súc. Tác giả cũng cho rằng các cộng đồng dân tộc thiểu số MNPB đang quản lý và sử dụng một tập đoàn giống cây trồng và vật nuối rất phong phú và rất có giá trị cho sản xuất nông nghiệp do có tính chống chịu cao với các điều kiện bất lợi. Ví dụ cộng đồng người Tày ở Bắc Kạn đang sử dụng tới 20 giống cây trồng và 3 giống vật nuôi bản địa phổ biến, trong khi đó cộng đồng người Dao ở Bắc Kạn cũng đang sử dụng tới 19 giống cây trồng và 4 giống vật nuôi bản địa trong