Theo truyền thuyết, cây chuối được cho là xuất phát từ vườn của Enden (thiên đường) do đó tên của nó là Musa paradise có nghĩa là trái của thiên đường. Tên này được gọi đầu tiên cho đến khi được thay bằng từ “banana” bởi những người thuộc bộ tộc African Congo. Từ “banana” dùng để chỉ chuối dùng ăn tươi còn từ “plantain” dùng để chỉ chuối nấu chín để ăn. Tuy nhiên hiện nay việc phân biệt các từ này không còn khác biệt rõ.
Chuối là loại cây nhiệt đới được trồng ở Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Maylaysia, Việt Nam các nước Đông Phi, Tây Phi, Mỹ Latinh Các loài chuối hoang dại được tìm thấy rất nhiều ở Đông Nam Á, do đó có thể cho rằng Đông Nam Á là quê hương của chuối.
74 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 10498 | Lượt tải: 9
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu sản xuất nectar chuối, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
TỔNG QUAN VỀ CHUỐI :
Tên khoa học [8]
Họ chuối :
Musa troglodytarum
Phân loại khoa học
Giới :
Plantae
Ngành :
Magnoliophyta
Lớp :
Liliopsida
Phân lớp :
Zingiberiadae
Bộ :
Zingiberales
Họ :
Musaceae Hình 1-1: Quả Chuối
Chi :
Musa
1.1.2 Nguồn gốc [8]
Theo truyền thuyết, cây chuối được cho là xuất phát từ vườn của Enden (thiên đường) do đó tên của nó là Musa paradise có nghĩa là trái của thiên đường. Tên này được gọi đầu tiên cho đến khi được thay bằng từ “banana” bởi những người thuộc bộ tộc African Congo. Từ “banana” dùng để chỉ chuối dùng ăn tươi còn từ “plantain” dùng để chỉ chuối nấu chín để ăn. Tuy nhiên hiện nay việc phân biệt các từ này không còn khác biệt rõ.
Chuối là loại cây nhiệt đới được trồng ở Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Maylaysia, Việt Nam các nước Đông Phi, Tây Phi, Mỹ Latinh … Các loài chuối hoang dại được tìm thấy rất nhiều ở Đông Nam Á, do đó có thể cho rằng Đông Nam Á là quê hương của chuối.
1.1.3 Đặc điểm hình thái của chuối [8]
Rễ : rễ chùm, có 2 loại , rễ ngang và rễ thẳng
Rễ ngang mọc xung quanh củ chuối và phân bố ở lớp đất mặt từ 0÷30cm, phần nhiều tập trung ở độ sâu 0,15cm, bề ngang rộng tới 2÷3 cm loại rễ này sinh trưởng khỏe, phân bố rộng, đó là loại rễ quan trọng nhất để hút nước và dinh dưỡng nuôi cây.
Rễ thẳng: mọc ở phía dưới củ chuối, ăn sâu 1÷1,5cm, tác dụng chủ yếu giữ cây đứng vững. Rễ chuối chứa nhiều nước, giòn, mềm, yếu, dễ gãy ; sức chịu hạn, chịu úng đều kém so với nhiều loại cây ăn trái khác.
Thân thật: còn được gọi là củ chuối, có hình tròn dẹt và ngăn, khi phát triển đầy đủ có thể rộng 30cm. Phần bên ngoài xung quanh củ chuối được bao phủ bởi những vết sẹo từ bẹ lá có dạng tròn. Ở đáy mỗi bẹ lá đều có một chồi mầm nhưng chỉ các chồi ở phần giữa củ là phát triển được, có khuynh hướng mọc trồi dần lên. Các sẹo lá mọc rất gần nhau làm thành khoảng cách rất ngắn. Củ chuối sống lâu năm, là cơ quan chủ yếu dự trữ chất dinh dưỡng, đồng thời là nơi để rễ, lá, mầm và cuống hoa mọc ra. Do đó củ chuối to mập là cơ sở đảm bảo cho cây sinh trưởng nhanh, năng suất cao. Xung quanh củ chuối có nhiều mầm ngủ, sau này sẽ phát triển thành cây con.
Thân giả và lá: thân cây chuối là thân giả, hình trụ do nhiều bẹ lá lồng vào nhau làm thành. Khi mầm chuối mới mọc lên thì bắt đầu mọc ra những lá vảy (không có thân lá) có tác dụng bảo vệ mầm chuối. Tiếp đó mọc ra loại lá dài và hẹp gọi là “lá kiếm ”. Về sau mọc ra những lá to bình thường gọi là lá thật. Đến khi mầm hoa phân hóa thì mọc ra một lá chót nhỏ, ngắn có tác dụng che chở buồng chuối.
Lá chuối phát triển mạnh nhất từ tháng 5 đến tháng 8, mỗi tháng mọc ra 3÷4 lá, phiến lá to, dày, màu xanh đậm và bóng. Từ tháng 10 trở đi, cách 2÷3 tuần mới ra 1 lá mới, lá thường mỏng, nhỏ, màu xanh nhạt, sinh trưởng chậm. Đến tháng 12÷1 mỗi tháng chỉ mọc được 1 lá.
Hoa chuối: cây chuối con sau khi mọc (hoặc sau khi trồng) 8÷10 tháng bắt đầu hình thành mầm hoa, sau đó khoảng 1 tháng bắt đầu trổ buồng. Hoa chuối thuộc loại hoa chùm gồm 3 loại: hoa cái, hoa lưỡng tính và hoa đực.
Hoa cái: tập trung ở phía gốc cuống buồng, phần này dài nhất (50÷100 cm). Loại hoa này nở ra trước tiên, nhị cái phát triển, nhị đực thoái hóa. Chỉ có hoa cái là phát triển thành trái được. Do đó, khi trồng, chọn lọc cây giống tốt, chăm bón kịp thời để hình thành nhiều hoa cái là nhân tố quan trọng bảo đảm năng suất cao.
Hoa lưỡng tính: nằm ở phần giữa bắp chuối, loại hoa này không nhiều lắm, về sau sẽ rụng và không hình thành trái được.
Hoa đực: nằm ở phía đầu bắp chuối, nhị cái thoái hóa, nhị đực phát triển, dài bằng nhị cái. Loại hoa đực không thể hình thành trái được sau này sẽ khô đi và rụng dần.
Trái chuối: bảng 1-1 nêu một số kích thước và đặc điểm công nghệ của các loại chuối tiêu, chuối goòng và chuối bom.
Bảng 1-1 : Đặc điểm công nghệ của một số loại chuối [8]
Loại chuối
Khối lượng trái (g)
Độ dài trái
(cm)
Đường kính trái
(cm)
Tỷ lệ ruột
(%)
Khối lượng buồng (kg)
Số nải /buồng
Số trái / nải
Tiêu
120
13
3,4
65
13
10
16
Goòng
130
13
4,2
72
15
12
14
Bom
64
10,6
3,0
73
17
17
14
1.1.4 Điều kiện gieo trồng: [8]
Nhiệt độ: chuối sinh trưởng bình thường ở nhiệt độ 15,5÷350C. Dưới 150C và trên 350C hoạt động sinh trưởng của cây bị giảm nhanh. Nhiệt độ bình quân thích hợp của chuối là 24÷250C. Chuối sợ lạnh, nhiệt độ xuống dưới 100C kéo dài, cây ngừng sinh trưởng, năng suất và phẩm chất trái kém, đặc biệt mả quả xấu. Ở 50C lá bắt đầu bị ảnh hưởng, nếu kéo dài lá bị khô héo, nhiệt độ xuống đến 00C thì vườn chuối sẽ bị hại nhiều, nhất là chuối tiêu.
Ở Việt Nam không có hoặc rất ít những nơi có nhiệt độ thấp có thể làm chuối chết. Tuy nhiên ở miền Bắc về mùa rét, khi có sương giá có thể làm cho chuối vàng lá hoặc chết nếu là chuối mới trồng. Ở những nơi có nhiệt độ quá cao trên 400C thì một số giống chuối như chuối tiêu sẽ khó chín vàng, chóng nhão. Hơn nữa, nhiệt và ẩm cao thì trái to, vỏ dày, không có mùi thơm.
Ánh sáng: trong thời gian sinh trưởng nếu có trên 60% số ngày nắng thì cây chuối sinh trưởng bình thường. Thiếu ánh sáng thì lá phát triển chậm, quang hợp kém. Ánh sáng quá mạnh làm giảm tuổi thọ của lá, rám cuống buồng làm cho chất lượng chuối kém. Chuối tây chịu nắng hơn chuối tiêu. Trong vườn chuối tiêu, các tàu lá che phủ lên nhau thì sinh trưởng mới tốt.
Nước: chuối cần nhiều nước. Vùng trồng chuối thích hợp phải có lượng mưa bình quân hằng năm từ 1500-2000mm. Phân bố đều các tháng trong năm. Độ ẩm không khí thích hợp 75% trở lên, hạn hay úng nước đều làm cho chuối sinh trưởng không bình thường, năng suất và phẩm chất kém. Cây chuối chịu hạn yếu do rễ ăn nông và do sức hút của rễ thấp, chỉ có thể hút khoảng 60% lượng nước có ích trong đất. Cho nên tốt nhất là giữ cho độ ẩm của đất luôn luôn tiếp cận độ ẩm tối đa, đặc biệt đối với chuối tiêu là một trong những giống chịu hạn yếu nhất. Hạn có thể phối hợp với rét làm cho hoa không trổ bông được. Khi cây chuối ra hoa trổ buồng, nếu bị hạn thì buồng chuối ngắn lại, bị vặn lại, mất giá trị thương phẩm.
Đất: cây chuối thích hợp với đất đồi, đất ruộng, đất phù sa, đất bãi, có độ pH từ 4,5÷7,5. Rễ chuối thuộc loại rễ chùm, mềm gặp đá sỏi chùn lại, rễ không đâm thẳng mà ngoằn ngoèo, tốn sức, cho nên đất trồng chuối phải có kết cấu đất thuần không có sỏi đá, tầng đất sét gần mặt đất. Mặt khác chuối tiết hơi nước mạnh, yêu cầu phải sinh nhiều mùn xốp, chứa được nhiều nước. Cây chuối lại sinh trưởng mạnh, lượng sinh khối cao cho nên đất trồng chuối phải là loại đất tốt, thoát nước tốt, độ pH từ 4,5÷8,0, (pHopt = 6÷7,5), mực nước ngần nên sâu hơn 0,8÷1,0 m.
Phân bón: rễ chuối sinh trưởng liên tục, do đó cần phải chú ý bón phân cho chuối. Ngoài nguồn phân hữu cơ như phân chuồng, ủ thêm rơm rạ cần phải bón thêm phân hóa học. Các loại khoáng chất trong phân bón có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của cây chuối. Ví dụ, nitơ giúp cây sinh trưởng nhanh, trổ buồng sớm hơn, diện tích lá tăng làm tăng khả năng quang hợp, khối lượng trung bình của buồng tăng và trái lớn. Thiếu nitơ cây chuối sẽ mọc yếu, cây nhỏ, thân màu lục nhạt, lá có màu vàng nhạt, đẻ chồi ít, ít trổ buồng, năng suất kém. Thừa nitơ sẽ làm cây mẫn cảm hơn đối với các loại bệnh do nấm và có thể làm ảnh hưởng xấu đến phẩm chất trái. Các loại khoáng khác ảnh hưởng đến sự phát triển của chuối là P, K, Mg, Ca, Cu, Zn, Mn, Fe, S…
1.1.5 Các giống chuối ở Việt Nam:
1.1.5.1 Phân lọai theo tên gọi thường:
Chuối được trồng ở khắp các miền trên đất nước ta, tuy nhiên chất lượng và sản lượng chuối ở miền Nam có phần nào cao hơn so với miền Trung và miền Bắc, do điều kiện khí hậu miền Nam nóng và ẩm phù hợp cho sự phát triển của chuối. Có nhiều giống chuối, chúng thường được phân biệt dựa vào hình dạng của cây chuối.
Chuối tiêu:
Chuối tiêu được trồng nhiều ở các vùng đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long. Có ba giống chuối tiêu phân loại theo độ cao của thân.
Chuối tiêu lùn: thân cao 1,5÷2m. Lá mọc sít nhau, cuống ngắn lá màu xanh đậm. Trái hơi cong, dài 14÷16cm, đường kính trái 2,5÷3cm. Mỗi buồng chuối tiêu lùn nặng trung bình 14÷18kg, có buồng nặng trên 20kg. Thịt chắc, thơm ngọt. Cây sinh trưởng khỏe, chịu gió khá tốt.
Chuối tiêu nhỡ: thân cao 2÷3m. Lá dài hơn giống trên. Trái ít cong hơn trái chuối tiêu lùn, dài 15÷18cm, đường kính trái 2,5÷3cm. Buồng chuối tiêu nhỡ nặng trung bình 15÷20kg, có buồng nặng 25÷30kg. Thịt có màu nhạt hơn mềm hơn chuối tiêu lùn. Mùi vị cũng không thơm ngon bằng chuối tiêu lùn. Cây sinh trưởng khỏe, năng suất cao.
Chuối tiêu cao: thân cao 3,5÷ 4m. Lá dài, to, mọc thưa. Trái to, hơi thẳng, dài 16÷ 20cm, đường kính 3,5÷4cm. Buồng chuối tiêu cao nặng trung bình 20÷25kg, có buồng nặng 35÷40kg. Thịt hơi nhão, mùi vị kém nhất trong ba giống chuối tiêu. Cây sinh trưởng khỏe, năng suất cao nhưng chống gió bão kém. Buồng trái nặng dễ gãy đổ.
Hình 1- 2: Chuối tiêu
Chuối sứ (chuối tây, chuối xiêm)
Chuối sứ được trồng phổ biến ở nhiều nơi, cây mọc khỏe, cao to, lá dài rộng, cuống lá có phấn trắng. Trái to, ngắn, mập, vỏ mỏng , khi chín vàng tươi, vị ngọt, kém thơm. Buồng nặng 15÷20kg.
Chuối sứ không kén đất, chịu được hạn, úng, đất xấu và chịu rét khá hơn chuối tiêu. Do đó, chuối sứ thường được trồng ở các vùng trung du, miền núi. Khả năng bảo quản, vận chuyến kém.
Hình 1-3: Chuối sứ
Chuối ngự:
Dọc bờ sông Châu Hà Nam , nhiều nơi nổi tiếng về trồng chuối ngự. Nhưng ngon nhất vẫn là chuối ngự làng chiêm trũng Đại Hoàng (Huyện Lý Nhân Tỉnh Hà Nam). Cây chuối ngự cao khoảng 2,5÷3m, lá xanh mát.
Khác với chuối ngự trâu, quả to, ăn nhạt, chuối ngự thóc (hay còn gọi là chuối ngự mít) là loại được tiến vua. Cây chuối ngự mít thấp, trái nhỏ, cuống thanh, vỏ mỏng màu vàng óng , thịt trái mịn, bên ngoài màu vàng nhạt, trong ruột màu vàng sậm, mùi vị thơm và ngọt hơn cả chuối tiêu lùn.
Hình 1-4 : Chuối ngự
d) Chuối mật (chuối lá):
Chuối mật được trồng rải rác khắp nơi, cây cao lớn 3,5÷4 m. Trái lớn có ba cạnh, vỏ dày hơi khó bóc. Thịt trái khi chín màu vàng nhạt, nhão, không thơm, hàm lượng đường thấp, vị ngọt pha chua. Cây sinh trưởng khỏe, năng suất thấp thường được dùng để sản xuất chuối khô.
e) Chuối cau (chuối cơm):
Thân cây chuối cau nhỏ, trái ngắn, buồng nhỏ không sai, vỏ dày. Trái chín ăn không ngọt lắm hơi chua.
f) Chuối hột:
Cây chuối hột cao lớn 4÷5m, mọc khỏe. Trái có cạnh rõ rệt, vỏ dày nhiều hột. Khi chín vỏ không vàng như các loại chuối khác. Cây sinh trưởng khỏe, chịu được hạn, rét, ít sâu bệnh. Vì có nhiều hột nên chuối hột thường chỉ được dùng để làm rau trong các món ăn hay dùng làm thuốc chữa bệnh.
Bảng 1-2 : Đặc điểm một số giống chuối phổ biến [2]
Loại chuối
Chuối tiêu
Chuối sứ
Chuối bom
Khối lượng quả (g)
110
120
64
Độ dài quả (cm)
13
13
10.6
Đường kính quả (cm)
3.4
4.2
3.0
Tỷ lệ ruột (%)
65
72
73
Khối lượng buồng (kg)
13
15
7
Số nải trong 1 buồng
10
12
7
Số quả trong 1 nải
16
14
14
1.1.5.2 Phân loại dựa theo gen [16]:
Trước đây theo Linne chuối được chia thành các nhóm:
Musa sapentum L
: trái chín ngọt, ăn tươi.
Musa paradiaca L
: khi chín phải nấu mới ăn được.
Musacavendish,Musa nana
: chuối già lùn.
Từ năm 1948, Cheesman đã phân biệt 2 nguồn gốc chính của chuối trồng trọt là: M.acuminita colla và M.balbisiana colla. Trong họ phụ Musoidae có 2 giống Enset và Musa.
Từ năm 1995, Simmonds và Shepherd đã dựa vào số điểm đánh giá 15 đặc điểm ngoại hình của chuối để qui định mức độ lai của các giống chuối trồng trọt đối với 2 dòng Acuminita và Balbisiana, trong gen đều có gen A và gen B.
Bảng 1-3: Đặc điểm ngoại hình của hai loại chuối M. acuminita và
M. Balbisiana [3]
Đặc điểm
M.acuminita
M.balbisiana
Màu thân giả
Nhiều màu nâu hay đốm đen.
Có đốm ít hoặc không có.
Rãnh cuống lá
Mép thẳng hoặc bè ra với những cánh phía dưới, không ôm siết thân giả.
Bờ mép khép xung quanh, không có cánh phía dưới, ôm siết thân giả.
Cùi buồng
Thường có lông tơ
Nhẵn
Cuống trái
Ngắn
Dài
Noãn sào
Hai hàng đều nhau ở mỗi ngăn
Bốn hàng bất thường
Bờ vai lá mo
Có tỷ số < 0,28
Thường có tỷ số > 0,3
Sự cuốn lá mo
Lá mo cuốn tròn
Lá mo nâng lên nhưng không cuốn tròn
Hình dạng lá mo
Nhọn
Tù
Màu sắc lá mo
Bên ngoài có màu đỏ, bên trong có màu hồng
Bên ngoài đỏ tía, bên trong đỏ thẫm
Phai nhạt màu trong lá mo
Phai nhạt đến màu vàng
Bên trong màu đỏ liên tục
Vết thẹo lá mo
Lồi lên
Ít lồi lên
Phía hoa tự do của hoa đực
Gợn sóng bên dưới đỉnh
Ít khi gợn sóng
Màu của hoa đực
Màu đỏ bừng, thay đổi đến màu hồng
Màu nuốm nhụy
Cam, vàng
Hồng nhạt, vàng nhạt
Cách tính điểm: nếu đồng ý một đặc điểm nào của loài M.acuminata thì ghi 1 điểm, M.balbisiana thì ghi 5 điểm, các điểm trung gian ghi 2, 3, 4 tùy theo mức độ biểu hiện.
Dựa vào số điểm, ta có thể phân loại các giống chuối như sau:
15 – 24 điểm: gen AA, AAA, AAAA.
25 – 46 điểm: gen AAB.
46 – 54 điểm: gen AB.
55 – 64 điểm: gen AAB.
65 – 74 điểm: gen ABBB.
Vakili và Simmon đã phân loại các giống chuối trồng ở Việt Nam trên cơ sở di truyền như sau:
Nhóm AA: gồm chuối Cau, chuối Tiêu, chuối Ba thơm... Nhóm nhị bội AA có một bất lợi là quả bé, năng suất thấp.
Nhóm AAA: gồm nhiều giống trong đó có chuối Già Cui, Già hương, Già lùn, Laba, Bà hương, chuối Cơm, sau này một số giống của Đài Loan được đưa vào Việt Nam nuôi cấy mô. Nhóm chuối Già (Musa cavendish) thường dùng xuất khẩu quả tươi.
Nhóm AAB: có các giống chuối như chuối Lá, chuối Bom... Chuối Bom được trồng khá nhiều ở tỉnh đồng Nai, thích hợp cho việc làm chuối sấy.
Nhóm ABB: các giống chuối sứ được nhiều người Việt Nam ưa chuộng.
Nhóm BB: có nhóm chuối hột mà phần lớn dùng làm rau ăn sống và dùng làm thuốc.
1.1.7 Diện tích và sản lượng của chuối:[25]
1.1.7.1 : Diện tích và sản lượng chuối ở Việt Nam:
Ở nước ta chuối là loại trái cây có diện tích và sản lượng cao. Tuy nhiên, diện tích trồng chuối lại không tập trung. Do đặc điểm là loại cây ngắn ngày, nhiều công dụng và ít tốn diện tích nên chuối được trồng ở rất nhiều nơi trong các vườn cây ăn trái và hộ gia đình. Một số tỉnh miền Trung và miền Nam có diện tích trồng chuối khá lớn (Thanh Hóa, Nghệ An, Khánh Hòa, Đồng Nai, Sóc Trăng, Cà Mau có diện tích từ 3.000 ha đến gần 8.000 ha). Trong khi đó các tỉnh miền Bắc có diện tích trồng chuối lớn nhất như: Hải Phòng, Nam Định, Phú Thọ…chưa đạt đến 3.000 ha.
Theo thông tin mới đây, một số tỉnh miền Bắc như Hưng Yên, Nam Đinh đang rất quan tâm vấn đề khôi phục lại các giống chuối quý của địa phương là chuối tiêu hồng, chuối ngự...
Bảng 1-4 : Diện tích trồng chuối theo các vùng (Đơn vị: ha)
Vùng
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Đồng Bằng Sông Hồng
17 900
18 100
17 546
17 407
16 400
Đông Bắc Bộ
8 900
6 300
9 021
8 849
8 700
Tây Bắc Bộ
2 300
2 200
2 376
2 668
2 600
Bắc Trung Bộ
15 400
15 500
15 867
16 029
16 400
Duyên Hải Nam Trung Bộ
10 200
10 500
10 642
10 713
11 400
Tây Nguyên
2 900
3 400
3 493
3 630
3 700
Đông Nam Bộ
12 100
12 300
12 689
12 653
12 800
Đồng Bằng Sông Cửu Long
31 600
27 700
27 706
30 142
31 300
Bảng 1-5 : Sản lượng trồng chuối theo vùng (Đơn vị: tấn)
Vùng
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Đồng Bằng Sông Hồng
359 500
342 700
426 161
352 181
403500
Đông Bắc Bộ
95 900
65 200
100 575
98 517
96,600
Tây Bắc Bộ
19 300
25 400
27 285
30 691
30,600
Bắc Trung Bộ
80 800
98 300
102 966
205 666
110800
Duyên Hải Nam Trung Bộ
66 000
103 500
99 636
99 504
111800
Tây Nguyên
33 900
41 400
44 262
53 027
58300
Đông Nam Bộ
114 800
146 400
150 717
162 596
175800
Đồng Bằng Sông Cửu Long
310 200
274 800
330 203
351 629
366900
1.1.7.2 Sản lượng chuối trên thế giới:
Bảng 1-6: Sản lượng chuối hàng năm trên thế giới
so với các loại rau trái khác [16]
(Theo bảng thống kê của tổ chức FAO năm 2004)
Tên
Tên Latinh
Sản lượng (tấn)
Bắp
Zea mays
721 379 361
Lúa mì
Triticum
627 130 584
Gạo
Oryza
605 758 530
Khoai tây
Ipomea batatas
127 139 553
Cà chua
Lycopersicon esculentum
120 384017
Chuối
Musa spp.
71 343 413
Nho
Vitis vinifera
66 569 761
Cam
Citrus sinensis
62 814 424
Táo
Malus domestica
61 919 066
Theo bảng thống kê của FAO, chuối dẫn đầu về sản lượng thu hái so với các lọai trái cây khác và giữ vị trí thứ năm về giá trị kinh tế trong khu vực nông nghiệp
Tình hình sản xuất chuối trên thế giới:
Chuối chủ yếu được trồng chủ yếu ở những nước đang phát triển. Khoảng 98% sản lượng chuối của thế giới được trồng ở những nước đang phát triển và được xuất khẩu tới các nước phát triển. Vào năm 2004, tổng cộng có 130 nước xuất khẩu chuối. Tuy nhiên, về việc sản xuất cũng như xuất nhập khẩu chuối thường là tập trung vào một số nước nhất định. Mười nước sản xuất chính chiếm tới 75% sản lượng chuối thế giới vào năm 2004. Trong đó thì Ấn Độ, Ecuador, Braxin và Trung Quốc chiếm một nửa của toàn thế giới. Điều này càng ngày càng tăng lên cho thấy sự tập trung hóa về phân phối chuối trên toàn thế giới.
Nếu như những năm 1980, các nước Mỹ La Tinh và khu vực Carribê là khu vực sản xuất chuối chính của thế giới thì đến những năm 1990, khu vực Châu Á đã vượt lên dẫn đầu, tiếp theo là các nước Nam Mỹ và cuối cùng là châu Phi.
Cơ cấu sản xuất chuối trên thế giới:
Hình 1-5: Cơ cấu sản xuất chuối trên thế giới
Cơ cấu xuất khẩu chuối:
Xuất khẩu chuối trên thế giới chủ yếu là tập trung vào các nước đang phát triển. Riêng Mỹ La tinh và khu vực Caribê đã chiếm 70% lượng xuẩt khẩu chuối năm 2004. Bốn nước xuất khẩu chuối nhiều nhất thế giới vào năm 2004 là Ecuado, Costa Rica, Philipine, Colombia đã chiếm tới 63% xuất khẩu chuối trên toàn thế giới. Chỉ tính riêng Ecuador đã chiếm 30%. Trong những năm 90, xuất khẩu chuối từ Mỹ La tinh và khu vực Caribê giảm nhẹ và xuất khẩu từ khu vực Châu Á tăng lên.
Hình 1-6: Cơ cấu xuất khẩu chuối
Cơ cấu nhập khẩu chuối:
Chỉ riêng EU, Mỹ và Nhật, đã chiếm đến 67% nhập khẩu trên toàn thế giới năm 2004. Mặc dù sự tập trung về mặt địa lý vẫn khá cao nhưng xu hướng đa dạng hóa ngày càng tăng, đặc biệt là vào những năm 1990, khi có sự xuất hiện của một số nước nhập khẩu mới. Điều này cho thấy nhập khẩu chuối ngày càng lớn của một số thị trường mới nổi như Liên bang Nga, Trung Quốc, Đông Âu. Trong khi đó mức nhập khẩu của khu vực EU vẫn tương đối ổn định.
Hình 1-7: Cơ cấu nhập khẩu chuối
1.1.8 Ý nghĩa kinh tế của chuối:
So với nhiều cây trồng khác, toàn bộ sản phẩm của cây chuối có thể sử dụng làm lương thực, thực phẩm, thức ăn gia súc, thuốc nhuộm, công nghệ chế biến thực phẩm, làm rượu, làm mứt…
So với các loại rau quả khác, chuối có chu kì kinh tế khá ngắn, mức đầu tư không cao, kỹ thuật không phức tạp.
Thị trường tiêu thụ trong nước và ngoài nước còn đang mở rộng. Theo tính toán kinh tế thì 1 ha trồng chuối đem lại giá trị sản phẩm bằng 3.8 ha trồng lúa hoặc 10 ha trồng lạc hoặc 6 ha trồng ớt.
1.1.9 Thành phần hóa học của chuối [8]:
Chuối là loại trái cây giàu chất dinh dưỡng. Trái chuối chín chứa 70÷80% nước, 20÷30% chất khô, chủ yếu là đường trong đó đường khử chiếm 55%. Hàm lượng protein thấp (1÷1,8 % ) gồm 17 acid amin, chủ yếu là histidin. Lipid không đáng kể. Acid hữu cơ trong chuối chỉ vào khoảng 0,2 %, chủ yếu là acid malic và oxalic, vì thế chuối có độ chua dịu. Chuối chứa ít vitamin (carotene, vitamin B1, C, acid folic, inositol) nhưng hàm lượng cân đối, ngoài ra còn có muối khoáng, pectin và hợp chất polyphenol.
Bảng 1-7: Thành phần dinh dưỡng của các loại chuối
trong 100g chuối chín 100% [14]
Thành phần dinh dưỡng
Chuối xanh
Chuối Tây
Chuối Tiêu
Nước (g)
80,2
83,2
74,4
Năng lượng (Kcal)
74
56
97
Protein (g)
1,2
0,9
1,5
Lipid (g)
0,5
0,3
0,2
Glucid (g)
16,4
12,4
22,2
Celluloza (g)
1,0
2,6
0,8
Tro (g)
0,8
0,8
0,9
Thành phần hoá học của ruột chuối thay đổi theo loại chuối, nơi trồng, độ chín và tháng thu hoạch.
Bảng 1-8: Hàm lượng các chất khóang trong 100 g chuối ăn được (mg) [14]
Hàm lượng chất khóang
Chuối xanh
Chuối Tây
Chuối Tiêu
Calci
26
12
8
Sắt
0,4
0,5
0,6
Magie
17
27
41
Mangan
0,1
0,31
0,12
Phospho
27
25
28
Kali
256
286
329
Natri
13
17
19
Kẽm
0.25
0.32
0.37
Đồng
94
150
140
Selen
0.3