Đề tài Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Pháp luật thừa kế là một phần quan trọng trong bộ luật dân sự. Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các quyền của công dân. Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã hội. Mỗi nhà nước dù có các xu thế chính trị khác nhau, nhưng đều coi thừa kế là một quyền cơ bản của công dân và được ghi nhận trong Hiến pháp. Những quy định về pháp luật thừa kế trong bộ luật dân sự đã góp công sức không nhỏ trong việc ổn định và phát triển đời sống xã hội trong nhiều năm qua. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển ngày càng đa dạng của các quan hệ xã hội, các vấn đề tranh chấp về thừa kế ngày càng gia tăng về số lượng và phức tạp về nội dung, bởi vì giá trị của di sản thừa kế không chỉ đơn thuần là là tài sản thông thường phục vụ sinh hoạt tiêu dùng mà là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, vốn đầu tư, cổ phần, cổ phiếu.Nói đến thừa kế chắc hẳn ai cũng nghĩ tới người thừa kế theo pháp luật hay người thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên có một loại thứ ba, vừa không phải là người thừa kế theo pháp luật cũng không phải người theo di chúc đó là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc (Điều 669). Đây là một vấn đề quan trọng nhưng khá phức tạp của chế định thừa kế. Chính vì vậy, để làm sáng tỏ thêm về vấn đề này em xin chọn đề tài “người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.

doc20 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3026 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU. Pháp luật thừa kế là một phần quan trọng trong bộ luật dân sự. Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các quyền của công dân. Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã hội. Mỗi nhà nước dù có các xu thế chính trị khác nhau, nhưng đều coi thừa kế là một quyền cơ bản của công dân và được ghi nhận trong Hiến pháp. Những quy định về pháp luật thừa kế trong bộ luật dân sự đã góp công sức không nhỏ trong việc ổn định và phát triển đời sống xã hội trong nhiều năm qua. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển ngày càng đa dạng của các quan hệ xã hội, các vấn đề tranh chấp về thừa kế ngày càng gia tăng về số lượng và phức tạp về nội dung, bởi vì giá trị của di sản thừa kế không chỉ đơn thuần là là tài sản thông thường phục vụ sinh hoạt tiêu dùng mà là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, vốn đầu tư, cổ phần, cổ phiếu...Nói đến thừa kế chắc hẳn ai cũng nghĩ tới người thừa kế theo pháp luật hay người thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên có một loại thứ ba, vừa không phải là người thừa kế theo pháp luật cũng không phải người theo di chúc đó là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc (Điều 669). Đây là một vấn đề quan trọng nhưng khá phức tạp của chế định thừa kế. Chính vì vậy, để làm sáng tỏ thêm về vấn đề này em xin chọn đề tài “người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. B. NỘI DUNG. I. Cơ sở lý luận về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. 1. Khái niệm thừa kế, quyền thừa kế. “Sinh, lão, bệnh, tử” đó là quy luật của tự nhiên, con người sinh ra rồi một ngày nào đó cũng phải chết đi không giống như tài sản có thể tồn tại vĩnh viễn hay chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác. Bởi vậy, sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống đã tồn tại như một yêu cầu khách quan của xã hội và được hiểu đó là việc thừa kế tài sản. Khi nhà nước ra đời thì pháp luật – công cụ hữu hiệu giúp nhà nước quản lý mọi mặt trong đời sống xã hội. Là một quan hệ ra đời và tồn tại từ rất lâu trong đời sống xa hội, thừa kế được điều chỉnh khá hiệu quả bởi quy phạm pháp luật dân sự, một ngành luật điều chỉnh mối quan hệ về tài sản mang tính chất ngang giá và giữa các chủ thể bình đẳng với nhau về địa vị pháp lý. Từ một phạm trù kinh tế mang tính khách quan, khi được điều chỉnh bởi pháp luật quyền thừa kế đã đã trở thành một phạm trù pháp lý mang tính chủ quan và bị ảnh hưởng bởi những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia. Như vậy, xuất phát từ những quan hệ xã hội đời thường và được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật, quyền thừa kế được hiểu theo nhiều cách như sau: - Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế được hiểu là một chế định pháp luật bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ việc dịch chuyển tài sản từ người chết cho những người còn sống khác theo ý chí của họ được thể hiện trong di chúc hoặc theo ý chí của Nhà nước được thể hiện trong các quy phạm pháp luật. - Theo nghĩa hẹp: quyền thừa kế được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoắc có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo ý chí của người đó hoặc theo quy định của pháp luật. - Ngoài ra, dưới góc độ pháp lý thì quyền thừa kế còn được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự. Quan hệ này bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung. Đây là một loại quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh và có mối quan hệ mật thiết với quan hệ sở hữu. 2. Khái niệm di chúc. Việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống có thể được thực hiện theo ý chí của người để lại di sản (thừa kế theo di chúc) nhưng cũng có thể được thể hiện thông qua ý chí của nhà nước (thừa kế theo pháp luật). Xét về sơ sở hình thành thì thừa kế theo di chúc xuất hiện sau thừa kế theo pháp luật. Vậy di chúc và thừa kế theo di chúc là gì? Theo Điều 646 BLDS năm 2005 thì “ Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Như vậy, di chúc là sự bày tỏ ý chí của một người định đoạt tài sản của mình để cho ai, tặng cho ai sau khi chết, đây là ý chí mang tính đơn phương của người lập di chúc. Sự bày tỏ được thể hiện bằng văn bản được gọi là di chúc viết tay hay còn gọi là chúc thư hoặc bằng miệng thường là lời trăng trối trước khi chết. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì vợ chồng có quyền lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung (Điều 663 BLDS năm 2005). Trường hợp này xuất hiện ý chí của cả hai vợ chồng (2 người) nhưng vẫn là sự thể hiện tính đơn phương của di chúc vì vợ chồng là hai chủ thể đúng về một phía trong việc lập di chúc để định đoạt tài sản cho những người thừa kế. Nội dung của di chúc không đơn thuần chỉ là sự phân định tài sản một cách trực tiếp mà còn chứa những nội dung mang ý nghĩa khi tiến hành việc phân chia tài sản. Ví dụ: Ông A có ba người con, ông A có thể lập di chúc cho mỗi người 1/3 di sản của mình hoặc ông A cũng có thể truất quyền thừa kế của con trai mình, di sản sẽ được chia đều cho các con còn lại. Di chúc chỉ có hiệu lực khi nó thỏa mãn các điều kiện của di chúc như lập di chúc trong trạng thái tinh thần minh mẫn và người lập di chúc chết. Trong di chúc người lập di chúc có toàn quyền trong việc định đoạt tài sản cũng như đưa ra các điều kiện cho người thừa kế. 3. Về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. 3.1 Cơ sở quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc Từ trước cho đến nay, pháp luật của Việt Nam luôn tôn trọng, bảo vệ người có tài sản di chúc lại cho người thừa kế của mình. Người lập di chúc có thể lựa chọn bất cứ chủ thể nào đó để cho hưởng di sản theo di chúc: có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, xét dưới góc độ đạo lý và dưới góc độ pháp lý thì cá nhân phải có những “ nghĩa vụ” nhất định đối với một số đối tượng theo xác định của pháp luật, bởi vì cũng có những trường hợp người lập di chúc không cho những người mà mình có “nghĩa vụ” đối với họ được hưởng di sản. Pháp luật chỉ can thiệp khi khi nào người có tài sản quá lạm dụng quyền chuyển giao tài sản của mình mà lạm dụng tới quyền lợi đương nhiên của người thân nhất của mình. Chính vì vậy, Điều 669 BLDS năm 2005 đã hạn chế một phần quyền của cá nhân trong việc lập di chúc. Đó là người để lại di sản bắt buộc dành lại một phần di sản của mình cho những người thân thuộc gần gũi: “ Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản dược chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 bộ luật này: 1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng. 2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”. 3.2. Điều kiện là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Điều 669 quy định người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản. Tuy nhiên, không phải tất cả những người ở hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản đều là người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc; để được nhận phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc những người này còn phải thỏa mãn các điều kiện: - Người lập di chúc không cho họ hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật (2/3 một suất theo luật được xác định bằng cách giả định toàn bộ di sản chia theo pháp luật) - Không thuộc trường hợp những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 BLDS - Không thuộc trường hợp những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 643 BLDS Khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện nói trên, thì những người này sẽ được hưởng một phần di sản tối thiểu bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật mặc dù họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản. 3.3. Nghĩa vụ của người thừa kế không phụ thuốc vào nội dung của di chúc. Nhận phần di sản được hưởng không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, người thụ hưởng có nghĩa vụ thanh toán nợ di sản như tất cả những người thừa kế khác, họ tiếp nhận không chỉ 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật mà họ còn cả 2/3 suất đó trong tập hợp các khoản nợ. 3.4 Những lưu ý của quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc Thứ nhất: Chỉ xác định người hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc để cho họ hưởng di sản nếu người này không được người để lại di sản cho hưởng di sản (người để lại di sản truất quyền thừa kế của người thừa kế thuộc đối tượng được hưởng không phụ thuộc vào nội dung của di chúc) hoặc cho hưởng nhưng giá trị phần di sản được hưởng là quá ít (chưa bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật). Thứ hai: đối tượng được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc bao gồm vợ hoặc chồng của người chết, con chưa thành niên (con trai, con gái, con nuôi, con đẻ, con trong giá thú, con ngoài giá thú, dưới 18 tuổi); cha, mẹ đẻ, cha, mẹ nuôi; con đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) không có khả năng lao động. Thứ ba: Sẽ không cho người thừa kế được hưởng di sản không phu thuộc vào nội dung của di chúc nếu người thừa kế từ chối hưởng di sản (Điều 642 BLUS năm 2005) hoặc không có quyền hưởng di sản ( khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005). Thứ tư: Đối với cách tính 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật để cho người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được hưởng: hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến việc xác định di sản để chia, cá nhân suất để chia. Có quan điểm cho rằng một suất thừa kế được không phụ thuộc vào người thừa kế nào đó có bị truất quyền hay không. Tuy nhiên nếu theo quy định tại Điều 669 BLDS 2005 thì có thể hiểu: nếu chia theo pháp luật thì ai sẽ được hưởng hay nói cách khác là sẽ chia cho những ai. Do đó sẽ không bao gồm người thừa kế bị truất quyền, từ chối quyền hoặc không có quyền hưởng di sản. Người thừa kế theo Điều 669 có được hưởng di sản khi người để lại di chúc truất quyền hưởng di sản hay không? Trước hết cần phải hiểu rằng người thừa kế không được người để lại di chúc cho hưởng di sản bao gồm: người không được người lập di chúc phân định cho một phần di sản nào và người bị người lập di chúc truất quyền hưởng di sản. Từ đó, có thể hiểu người không được người để lại di chúc cho hưởng di sản có thể không phải là người bị truất quyền nhưng ngược lại thì đúng. Thứ năm: Giả thiết có người thừa kế là đối tượng được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc nhưng họ lại vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS quy định vể những người không được quyền hưởng di sản: “a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.” Tuy nhiên người lập di chúc vấn thể hiện ý chí (thông qua di chúc) cho người này hưởng di sản (khoản 2 Điều 643) nhưng phần di sản họ được hưởng lại nhỏ hơn 2/3 của một suất thừa kế thì họ có được hưởng 2/3 suất hay không? Ở đây chúng ta thấy rằng nếu người lập di chúc cho người thừa kế hưởng di sản thì họ không được quyền hưởng di sản thì nguồi này luôn luôn không được hưởng. Do đó nếu người lập di chúc cho họ bao nhiêu thì họ cũng chỉ được hưởng bấy nhiêu, kể cả ít hơn 2/3 của mỗi suất thừa kế theo pháp luật. Thứ sáu: Khối di sản dùng làm căn cứ cho việc tính 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật có bao gồm di sản thờ cúng và di tặng hay không? Điều 669 BLDS quy định: người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc sẽ được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật “được xác định bằng cách giả định toàn bộ di sản chia theo pháp luật”. Để xác định 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật ta phải giả định rằng: nếu không có di chúc thì khối di sản này sẽ được chia như thế nào? Bởi vậy, phải lấy toàn bộ di sản thừa kế (bao gồm cả phần di tặng và phần di sản dùng vào việc thờ cúng) chia cho tất cả những người thừa kế theo pháp luật để xác định hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Có như vậy mới bảo đảm được quyền lợi của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Thứ bảy: Việc cắt giảm phần di sản chia thừa kế, di tặng và di sản dùng vào việc thờ cúng để đảm bảo quyền lợi của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc sẽ được thực hiện theo thứ tự như thế nào? Trước hết, chúng ta cần phải khẳng định: di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc không phải là một khoản nợ của người để lại di sản. Vì nếu coi đây là một khoản nợ (là nghĩa vụ tài sản) của người để lại di sản thì nó phải được thanh toán theo thứ tự ưu tiên được quy định tại Điều 683 của BLDS năm 2005. Do đây không phải là nghĩa vụ tài sản của người chết để lại, nên phần di sản chia thừa kế sẽ không phải đem ra thanh toán cho phần di sản này trước tiên. Để đảm bảo quyền lợi của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, trong trường hợp người lập di chúc không cho hoặc cho hưởng ít hơn 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật thì cả di sản chia thừa kế, di tặng và di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ bị cắt giảm đồng thời và theo tỷ lệ. 3.5. Ý nghĩa của việc quy định những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Thực chất, việc quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc là để bảo vệ lợi ích của những người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ nhất, có quan hệ huyết thống trực hệ và quan hệ hôn nhân với người lập di chúc, phù hợp với phong tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, cá nhân (chủ sở hữa tài sản với tư cách là một thành viên của gia đình không thể bỏ qua lợi ích của những người thân thiết nhất. Họ có quyền được hưởng 2/3 một định suất của người thừa kế theo pháp luật trong trường hợp di sản được chia theo di chúc mà người lập di chúc không cho họ hưởng thừa kế theo di chúc hoặc cho hưởng phần di sản ít hơn 2/3 một định suất của người thừa kế theo pháp luật. Có thể nói đây chính là sự giao thoa giữa thừa kế theo di chúc và theo pháp luật. Người được thừa kế theo Điều 669 BLDS không có tên trong di chúc và họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản nhưng vẫn giả sử di sản được chia theo pháp luật để xác định suất thừa kế mà họ được hưởng. Ví dụ: A và B là hai vợ chồng họ có mộ con là C. A chẳng may chết và đề lại di chúc cho con C toàn bộ di sản là căn nhà trị giá 60 lượng vàng, tuy nhiên căn cứ quy định trên, khi anh A qua đời thì con chị chỉ được hưởng 40 lượng, chồng chị được hưởng 20 lượng. Bởi vì nếu chia theo pháp luật (thừa kế hàng thứ nhất chỉ có 2 người) thì mỗi người được hưởng 60:2= 30 lượng, mức hưởng thừa kế không phụ thuộc di chúc của chồng là 2/3 của 1 suất, tức 2/3 x 30 = 20 lượng, vậy người con chỉ còn 60 – 20 = 40 lượng. Hay trong trường hợp hai vợ chồng lấy nhau được 10 năm và có hai con ( 9 tuổi và 3 tuổi). Người chồng mất và để lại di chúc là để lại toàn bộ căn nhà trị giá 570 triệu người chồng xây trước khi kết hôn cho em của người chồng. Bố mẹ chồng cũng đã mất từ lâu, người vợ không di làm chỉ ở nhà chăm sóc hai con nên hiện giờ rất khó khăn. Giải quyết trường hợp này chúng ta thấy: Vì bố mẹ chồng đã mất, người vợ và hai con thuộc hàng thừa kế thứ nhất, cả hai con đều chưa thành niên nên căn cứ vào khoản 1 Điều 669 thì vợ và hai con là những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Vì người vợ đã viết di chúc để lại toàn bộ căn nhà cho người em trai, nên người vợ và hai con mỗi người được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc mà anh chồng để lại là 570 : 3 x 2/3 = 380/3. Người em trai của người chồng sẽ được hưởng phần di sản là 570- 380/3 x 3= 190 triệu đồng. 3. Vấn đề xác định hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Chia như thế nào để xác định một định suất thừa kế theo pháp luật ?. Về nguyên tắc, một suất thừa kế theo luật là kết quả của một phép chia, trong đó số bị chia là tổng giá trị di sản thừa kế mà như đã xác định thì di sản thừa kế là toàn bộ di sản của người chết để lại sau khi đã trừ đi các nghĩa vụ về tài sản cảu người chết để lại và các khoản chi phí có liên quan, số chia là tổng những người thừa kế theo pháp luật (những nhân suất). Trong thực tế, việc xác định được một suất thừa kế để từ đó xác định 2/3 của nó không đơn giản như chỉ đơn thuần như một phép chia số học. Việc xác định xem ai là nhân suất còn có nhiều quan điểm khác nhau. Cần lưu ý những người sau đây có phải là một nhân suất hay không: người không có quyền hưởng di sản theo Điều 643, người thừa kế theo Điều 669 bị người để lại di chúc truất quyền hưởng di sản, người từ chối nhận di sản. Việc người từ chối nhận di sản thì họ sẽ không được nhận di sản nữa kể cả chia theo pháp luật. Tuy nhiên cần phải xem xét trong những tình huống cụ thể sau : - Những người không có quyền hưởng di sản theo Điều 643 BLDS: Những người không có quyền hưởng di sản bao gồm cả những người thừa kế theo pháp luật và những người thừa kế theo di chúc. Nhưng để được coi là một nhân suất để tính một suất theo luật thì ta chỉ xem xét nếu họ là người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc. Đây là những người đáng lẽ được hưởng di sản nhưng do có những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức nên pháp luật không cho họ hưởng di sản. Theo Điều 643, những người này bao gồm: “ a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.” Những người này có được coi là nhân suất khi xác định một suất theo luật hay không, hiện nay còn tồn tại hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, đây là những người đáng lẽ được hưởng di sản nhưng do có những hành vi trái đạo đức, trái pháp luật nên họ bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản. Do đó, họ không còn là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Vì vậy không được tính họ vào nhân suất để xác định một suất theo luật. Quan điểm thứ hai cho rằng, cho dù bị tước quyền hưởng di sản nhưng những người này vẫn phải được coi là nhân suất để tính một suất theo luật vì nếu không như vậy dễ dẫn đến trường hợp “kỷ phần bắt buộc” có thể ít hơn bằng hay thậm chí lớn hơn một suất của một người thừa kế theo pháp luật trong trường hợp bình thường. Theo em, quan điểm thứ nhất hợp lý hơn, bởi lẽ, cách tính 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật là giả định di sản được chia theo pháp luật. Nếu di sản được chia theo pháp luật thì đương nhiên sẽ không thể chia cho những người bị tước quyền hưởng di sản. Vì vậy, những người này không được coi là một nhân suất để tính 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật. - Những người bị người để lại di chúc truất quyền hưởng di sản: Đây là những người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Nếu không có di chúc hoặc di c
Luận văn liên quan