Trong thực tế, có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống tải điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy . mà bản thân hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho chúng ta. Mặc dù chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đã tìm mọi cách phòng ngừa, vận hành chúng an toàn nhưng thực tế vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường. Pháp luật dân sự thế giới cũng như Việt Nam không có bất kỳ một khái niệm đầy đủ nào về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng có thể hiểu một cách khái quát, đó là loại trách nhiệm phát sinh cho người sở hữu, chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ khi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh.
23 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2499 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn nguy hiểm cao độ Một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU :
Trong thực tế, có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống tải điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy ... mà bản thân hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho chúng ta. Mặc dù chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đã tìm mọi cách phòng ngừa, vận hành chúng an toàn nhưng thực tế vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường. Pháp luật dân sự thế giới cũng như Việt Nam không có bất kỳ một khái niệm đầy đủ nào về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng có thể hiểu một cách khái quát, đó là loại trách nhiệm phát sinh cho người sở hữu, chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ khi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh.
B. NỘI DUNG :
I. Một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
1. Khái niệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Để có thể tìm hiểu được khái niệm về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra ta có thể tìm hiểu về một số vấn đề: thứ nhất, chúng ta cần biết bồi thường thiệt hại là gì? Thứ hai, khái niệm về nguồn nguy hiểm cao độ? Và cuối cùng là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
Thứ nhất, Điều 604 BLDS 2005 quy định:
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.
Như vậy, theo quy định tại Điều 604 BLDS 2005 ta có thể hiểu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ.
Thứ hai, Điều 623 BLDS 2005 quy định: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”. Qua sự liệt kê các loại tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ, trên cơ sở xem xét, đánh giá về các loại tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ trong các văn bản hướng dẫn ta có thể hiểu nguồn nguy hiểm cao độ là những vật nhất định do pháp luật quy định luôn tiểm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối. Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, một trong những yếu tố không thể bỏ qua đó là xác định nguồn nguy hiểm cao độ. Căn cứ vào Điều 623 BLDS 2005 thì có các lọai nguồn nguy hiểm cao độ sau:
- Phương tiện giao thông vận tải cơ giới: Theo khoản 18, Điều 3, Luật Giao thông đường bộ 2008 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2009) quy định: Phương tiện giao thông cơ giới bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô, máy kéo, rơ mooc hoặc sơ mi rơ mooc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự.
Theo khoản 1, Điều 623 BLDS 2005 thì phương tiện vận tải cơ giới bao gồm: phương tiện vận tải hoạt động trên đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không “ được trang bị và hoạt động bằng máy móc. ” Đặc điểm của phương tiện vận tải cơ giới là một loại tư liệu mà khi sử dụng đòi hỏi các điều kiện về người sử dụng và về an toàn kỹ thuật. Mặt khác, do vận hành bằng động cơ phương tiện vận tải cơ giới có thể gây nguy hiểm cao độ cho những người xung quanh. Hơn nữa, phương tiện vận tải cơ giới hiện nay đang được sử dụng phổ biến có giá trị và mang tính xã hội cao, là đối tượng thường được chuyển nhượng, cho thuê, cho mượn, thế chấp, bảo đảm. Trong các vụ do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì số vụ tai nạn do phương tiện vận tải cơ giới gây ra chiếm số lượng lớn và có mức độ thiệt hại cao. Nhưng vấn đề đặt ra là: có phải tất cả các phương tiện vận tải cơ giới đều là nguồn nguy hiểm cao độ hay không? Ví dụ: đối với loại xe máy có dung tích xi lanh <50cm3 thì người điều khiển không bắt buộc phải có giấy phép lái xe… Ngoài ra còn có một số lọai xe vừa có thể chạy bằng động cơ, vừa có thể đạp như xe babetta, hay như xe đạp điện, xe máy điện… các loại xe chuyên dùng cho thi công.
- Hệ thống tải điện: Luật Điện lực 2004 không đưa ra khái niệm hệ thống tải điện mà chỉ đưa ra khái niệm “lưới điện” , “thiết bị đo đếm điện”:
“…3. Lưới điện là hệ thống đường dây tải điện, máy biến áp và trang thiết bị phụ trợ để truyền dẫn điện. Lưới điện, theo mục đích sử dụng và quản lý vận hành, được phân biệt thành lưới điện truyền tải và lưới điện phân phối…
4. Thiết bị đo đếm điện là thiết bị đo công suất, điện năng, dòng điện, điện áp, tần số, hệ số công suấ, bao gồm các loại công tơ, các loại đồng hồ đo điện và các thiết bị, phụ kiện kèm theo.”
Tuy nhiên trong hệ thống truyền tải điện còn có hệ thống trang thiết bị phát điện vì vậy nó cũng được coi là bộ phận trong hệ thống truyền tải điện.
- Nhà máy: được hiểu là: “Xí nghiệp, cơ sở sản xuất của nền đại công nghiệp, thường sử dụng máy móc tương đối hiện đại với quy mô lớn: nhà máy cơ khí, nhà máy điện…”
Phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi “đang hoạt đông” vì khi ở trạng thái tĩnh – không hoạt động chúng giống như các vật bình thường khác không tạo ra nguy hiểm cho những người xung quanh. Chính trạng thái đang hoạt động đã đưa đến cho chúng khả năng gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ. Vì vậy nếu chúng gây thiệt hại khi không o trạng thái hoạt động thì thiệt hại đó không được giải quyết theo chế bộ bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
- Vũ khí: gồm vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn, vũ khí thô sơ…
- Chất cháy, chất nổ: là chất lỏng, khí, rắn… dễ gây ra cháy nổ. Chất cháy có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với oxy trong không khí, nước hoặc dưới tác động của các yếu tố khác…(xăng dầu, phốt pho…). Chất nổ với khả năng gây nổ mạnh, nhanh tỏa nhiệt và ánh sáng (thuốc nổ, thuốc pháo…)
- Thú dữ: là động vật bậc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa, to lớn, rất dữ có thể làm hại người. Ví dụ: sư tử, hổ, báo…
Như vậy, qua hai điều trên ta có thể hiều bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là như thế nào? Qua nghiên cứu Pháp luật về trách nhiêm bồi thường thiệt hại ở một số nước, ta nhận thấy hiện nay tồn tại hai quan điểm:
- Quan điểm cổ điển: cần phải tồn tại điều kiện lỗi mới phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Quan điểm này đặt căn bản trách nhiệm bồi thường thiệt hại trên ý niệm lỗi, vì vậy trong các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại phải chứng minh được yếu tố lỗi của người gây thiệt hại. Song với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, quan điểm này càng tỏ ra lạc hậu, không đủ để bảo vệ cho những người bị hại. Trong các trường hợp: tai nạn xảy ra mà không do lỗi của ai cả, thì việc đòi nạn nhân phải dẫn chứng lỗi của người gây thiệt hại chẳng khác nào gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi thường của những nạn nhân. Mặt khác, quan điểm này cũng không thể giải thích được trách nhiệm của người chưa đủ thành niên, người mất năng lực dân sự khi họ là những người gây thiệt hại.
- Quan điểm khách quan: để giải thích trách nhiệm của một người đối với thiệt hại – ngay cả khi họ không phạm một lỗi nào cả.
Quy định của BLDS Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trường hợp cụ thể của chế độ trách nhiệm khác quan này.
Vậy bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hiểu là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi
2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra :
Xuất phát từ hai điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, có thể khẳng định, về đặc điểm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại trách nhiệm dân sự về tài sản và trách nhiệm dân sự này không cần điều kiện lỗi.
Thứ nhất, cũng giống như điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được xác định khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế. Thiệt hại theo khái niệm chung được hiểu là sự giảm bớt những lợi ích vật chất của cá nhân, pháp nhân, tổ chức hoặc Nhà nước về sức khỏe, tính mạng, tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm, thi thể, mồ mả... được xác định bằng một khoản tiền và những chi phí hợp lí, phù hợp nhằm khắc phục những tổn thất về vật chất, tinh thần cho chủ thể bị thiệt hại. Tuy nhiên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ mang tính chất thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe chứ không bao gồm thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín hay thi thể, mồ mả... Bởi xuất phát từ chính đối tượng gây thiệt hại là nguồn nguy hiểm cao độ được xác định theo khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 như: phương tiện giao thông cơ giới, hệ thống tải điện, thú dữ, vũ khí,... đồng thời thiệt hại xảy ra do bản thân nội tại nguồn nguy hiểm cao độ đang trong tình trạng hoạt động chứ không phải bởi hành vi trái pháp luật có yếu tố lỗi của con người nên rõ ràng, nguồn nguy hiểm cao độ chỉ có thể gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản chứ hoạt động nội tại của các đối tượng này dẫn tới thiệt hại không thể là thiệt hại vể uy tín, danh dự, nhân phẩm.
Thứ hai, nếu như lỗi là một trong bốn điều kiện cơ bản làm phát sinh trách nhiệm trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra lại dựa trên sự suy đoán trách nhiệm của chủ sở hữu hay người quản lý nguồn nguy hiểm cao độ. Xuất phát từ việc trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ phát sinh khi thiệt hại xảy ra do nội tại nguồn nguy hiểm cao độ đang trong tình trạng vận hành, nằm ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển của người chiếm hữu, người đang sử dụng... và đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại thì theo khoản 3 Điều 623 BLDS 2005: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” Như vậy, chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp chứng minh được họ không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ.
Tuy nhiên, quy định này của pháp luật cũng không loại trừ khả năng thiệt hại xảy ra do một phần lỗi của chủ sở hữu, người quản lý, trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ; nhưng hành vi để xảy ra thiệt hại này của người trông giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải nguyên nhân có tính quyết định đến việc xảy ra thiệt hại. Ví dụ như trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt… Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người như xe đang chạy trên đường bất ngờ nổ lốp trước dẫn đến đổi hưởng đột ngột gây thiệt hại...
Như vậy, bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh là trách nhiệm pháp lý nâng cao không nhất thiết đòi hỏi phải chứng minh yếu tố lỗi của chủ thể gây thiệt hại. Nếu căn cứ vào yếu tố lỗi và cho nó là điều kiện bắt buộc để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và nếu trong mọi trường hợp xảy ra thiệt hại đều buộc người bị hại dẫn chứng lỗi từ phía gây thiệt hại thì thực sự là việc quá khó khăn, gần như không thực hiện được. Từ đó không thể đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho chủ thể bị thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra sẽ phát sinh mà không cần điều kiện lỗi.
3. Tại sao phải quy định trách nhiệm bồi thườn thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
- nâng cao trách nhiệm của chủ sở hữu đối với nguồn nguy hiểm cao độ.
- Bảo vệ người bị hại.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ độ được đưa ra với nhận định đó là những sự vật tiềm ẩn nguy cơ gây ra thiệt hại lớn. Trên cơ sở đó, cùng với việc xem xét mối quan hệ giữa hành vi của con người với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, pháp luật dân sự Việt Nam đã đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Từ khi BLDS năm 1995 ra đời cho đến nay, BLDS 2005 với những quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dân sự nói chung và chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nói riêng tại Điều 623 cùng với các Nghị quyết như Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, ... đã trở thành hành lang pháp lí vững chắc, bao quát tương đối đầy đủ, phù hợp với các vụ việc, tình huống phát sinh trong thực tế. Nhờ có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh nên khi xảy ra thiệt hại có thể giải quyết nhanh chóng và chính xác; đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các chủ thể bao gồm người bị thiệt hại và cả chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ; đồng thời khắc phục kịp thời những tổn thất về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người bị thiệt hại. Việc ghi nhận chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự, kỉ cương xã hội, tăng cường việc xây dựng Nhà nước ta thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
4. Khái quát những quy định cuả Pháp luật về bồi thườnng thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Như chúng ta đã biết, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được quy định tại Điều 623 BLDS 2005 nhưng trước đó BLDS 1991 đã có những quy đinh về vấn đề này tại Điều 627. Theo điều 627 BLDS 1995 thì BLDS 2005 quy định về điều này không có sự thay đổi nào, BLDS 2005 giữ nguyên và kế thừa những gì mà BLDS 1995 đã quy định. Ngoài ra ta có thể tìm hiểu thêm thông qua Nghị định số 03Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
II. Những quy định chung của Pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
1. Các quy định của Pháp luật về nguồn nguy hiểm cao độ.
Hiện nay chưa có một điều luật nào khái quát chung về các nguồn nguy hiểm cao độ mà dựa trên cơ sở quy định của Điều 623 BLDS 2005. Theo Điều 623 ta có thể thấy các nguồn nguy hiểm cao độ chỉ mang tính liệt kê. Ví dụ về Phương tiện giao thông vận tải cơ giới: Trên thực tế, có những phương tiện đang nằm ngoài “sự kiểm soát” của Pháp luật khi quy định về “nguồn nguy hiểm cao độ”, như: xe đạp, xe Babetta hay như máy thi công, máy ủi… Hay như rắn, ong gây thiệt hại thì chúng ta không thể cho chúng vào nguồn nguy hiểm cao độ được. Vì liệt kê các loại tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ chứ không đưa ra một khái niệm cụ thể nào nên Điều 623 BLDS 2005 còn đề cập “nguồn nguy hiểm cao độ khác” do pháp luật quy định. Như vậy, đây là quy định mang tính “mở” của pháp luật liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ.
2. Dấu hiệu để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra:
Trên thực tế, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi thỏa mãn các điều kiện sau:
Một là, những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại phải đang trong tình trạng vận hành, hoạt động như: phương tiện giao thông đang tham gia giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải điện; nhà máy công nghiệp đang hoạt động; ... bởi chỉ trong tình trạng vận hành, hoạt động, những đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ mới thực sự tiềm ẩn mối đe dọa gây nguy hiểm lớn cho người, vật và môi trường xung quanh và khi đó, con người mới không thể hoàn toàn điều khiển, chế ngự được chúng, sự cố xảy ra gây thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái hoạt động nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người. Nếu thiệt hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái không hoạt động ( trạng thái tĩnh ) ví dụ: xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt xuống chân dốc gây thiệt hại; cột điện bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện; thú dữ chết thối rữa gây dịch bệnh thì không thể coi đó là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Hai là, có thiệt hại do tự thân NNHCĐ gây thiệt hại. Và quan hệ giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ với thiệt hại xảy ra phải là mối quan hệ phổ biến, biện chứng. Nghĩa là thiệt hại xảy ra này phải do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà không phải do sự tác động bởi hành vi có dấu hiệu lỗi của con người. Đây là trường hợp hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ hoàn toàn độc lập với ý chí, nằm ngoài sự kiểm soát, chế ngự của con người. Ví dụ như: xe máy đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật… sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra tại Điều 623 BLDS 2005. Điều kiện này đòi hỏi hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ phải là nguyên nhân tất yếu, có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại. Khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, điểm mấu chốt quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra. Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng do “tác động của con người”, do hành vi của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
3. Trách nhiêm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra :
Căn cứ vào khoản 2 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có thể được áp dụng với các chủ thể sau:
- Chủ sở hữu;
- Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ;
- Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ.
Việc xác định ai trong số các chủ thể trên phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể.
Điều 165 Bộ luật dân sự quy định Nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu, theo đó “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Khi có thiệt hại do nguồn nguy hiểm