Các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) thể hiện những quan điểm cơ bản chủ đạo xuyên suốt trong các quy định của luật. Trong đó nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, một vợ, một chồng là nguyên tắc quan trọng và cơ bản nhất của chế độ HN&GĐ được Nhà nước ta bảo hộ, đồng thời cũng là nguyên tắc có tính kế thừa và xuyên suốt trong các đạo luật về HN&GĐ của nước ta từ 1945 đến nay. Nguyên tắc một vợ một chồng là nguyên tắc cơ bản và cần thiết để xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ HNGĐ tiến bộ với quan điểm rõ ràng: bản chất của tình yêu là không thể sẻ chia. Nguyên tắc này đã phủ nhận hoàn toàn chế độ hôn nhân đa thê đã được thừa nhận rất lâu trong lịch sử Việt nam nói riêng cũng như lịch sử toàn nhân loại nói chung gây bất bình đẳng về giới, hạ thấp vị trí của người phụ nữ trong gia đình và đi ngược lại với bản chất của hôn nhân. Lịch sử phát triển của nguyên tắc này đã có từ rất lâu và ngày nay nó đã trở thành nguyên tắc Hiến định (quy định tại điều 64 hiến pháp 1992) và được Nhà nước bảo hộ. Vậy thì nguyên tắc này có lịch sử phát triển như thế nào? Và nó được áp dụng như thế nào trong thực tiễn ở nước ta ? Đó là những câu hỏi mà muốn trả lời được cũng cần có công sức và thời gian để tìm hiểu.
17 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3189 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, lịch sử phát triển và thực tiễn áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) thể hiện những quan điểm cơ bản chủ đạo xuyên suốt trong các quy định của luật. Trong đó nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, một vợ, một chồng là nguyên tắc quan trọng và cơ bản nhất của chế độ HN&GĐ được Nhà nước ta bảo hộ, đồng thời cũng là nguyên tắc có tính kế thừa và xuyên suốt trong các đạo luật về HN&GĐ của nước ta từ 1945 đến nay. Nguyên tắc một vợ một chồng là nguyên tắc cơ bản và cần thiết để xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ HNGĐ tiến bộ với quan điểm rõ ràng: bản chất của tình yêu là không thể sẻ chia. Nguyên tắc này đã phủ nhận hoàn toàn chế độ hôn nhân đa thê đã được thừa nhận rất lâu trong lịch sử Việt nam nói riêng cũng như lịch sử toàn nhân loại nói chung gây bất bình đẳng về giới, hạ thấp vị trí của người phụ nữ trong gia đình và đi ngược lại với bản chất của hôn nhân. Lịch sử phát triển của nguyên tắc này đã có từ rất lâu và ngày nay nó đã trở thành nguyên tắc Hiến định (quy định tại điều 64 hiến pháp 1992) và được Nhà nước bảo hộ. Vậy thì nguyên tắc này có lịch sử phát triển như thế nào? Và nó được áp dụng như thế nào trong thực tiễn ở nước ta ? Đó là những câu hỏi mà muốn trả lời được cũng cần có công sức và thời gian để tìm hiểu.
Nội dung.
1_Khái niệm hôn nhân và gia đình.
1.1. Khái niệm hôn nhân.
- Theo nghĩa rộng: hôn nhân là sự kết hợp đặc biệt giữa hai người khác giới nhằm mục đích chung sống để xây dựng gia đình.
Hiểu theo nghĩa này thì hôn nhân là một quan hệ xa hội, mang tính giai cấp, luôn luôn là đối tượng của công tác lập pháp và luôn bị chi phối bởi các điều kiện kinh tế xã hội.
-Theo nghĩa hẹp: hôn nhân là quan hệ vợ chồng sau khi đã kết hôn ( khoản 6, điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2000).
Đặc điểm:
+ Hôn nhân một vợ một chồng là đơn hôn.
+ Là sự kết hợp giữa hai người khác giới tính.
+ Dựa trên cơ sở bình đẳng tự nguyện.
+ Mục đích của hôn nhân là chung sống với nhau suốt đời, xây dựng gia đình ấm nô, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
+ Việc kết hôn phải tuân thủ các quy định của pháp luật.
1.2. Khái niệm gia đình.
- Theo góc độ triết học: Gia đình là hình thức có tính chất lịch sử tự tổ chức đời sống giữa nam và nữ.
- Theo xã hội học: gia đình là tế bào của xã họi để thực hiện ba chức năng: sinh đẻ, giáo dục và kinh tế.,
- Theo luật hôn nhân và gia đình quy định tại khoản 10 điều 8: gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, qua hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật này.
Như vậy gia đình có nững nét như sau:
+ gia đình là sự liên kết của nhiều người với nhau do: Hôn nhân và huyết thống hoặc nuôi dưỡng; Cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh thần; sinh đẻ và giáo dục con cái; Có các quyền và nghĩa vụ về nhân thân, tài sản theo Luật định.
+ Trong từng trường hơpk cụ thể mỗi gia đình có thể mang nét này hoặc nét khác, hoặc có thể chỉ có quan hệ huyết thống với nhau hoặc chỉ có quan hệ nuôi dưỡng hoặc quan hệ hôn nhận…
2_ Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin về hôn nhân và gia đình.
Chủ nghĩa Mac-Lênin nhìn nhận HN&GĐ là những hiện tượng xã hội có phát sinh và phát triển do các điều kiện kinh tế xã hội quyết định. Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” Mác và Angghen đã phân tích, chứng minh rằng: lịch sử của gia đình là lịch sử của quá trình phát triển chế độ quần hôn, chuyển sang gia đình đối ngẫu, phát triển lên gia đình một vợ một chồng là quá trình không ngừng hoàn thiện trên cơ sở sự phát triển của các điều kiện sinh hoạt vật chất của con người. Mác và Angghen đã chỉ ra rằng: hình thức hôn nhân một vợ một chồng ra đời trên cơ sở sự xuất hiện của chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và những tài sản khác trong xã hội và được củng cố bởi chính sách, pháp luật của giai cấp thống trị.
Ngay từ khi mới ra đời, chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã bộc lộ tính giả dối và tiêu cực với số đong những người dân lao động. Đồng hành cùng với chế độ một vợ một chồng là nạn mại dâm công khai và tệ ngoại tình. Phản ánh tình trạng này Angghen đã viết: “Ngày nay, có hai cách để tiến hành một cuộc hôn nhân tư sản. Ở các nước theo đạo Thiên Chúa, vẫn như trước, cha mẹ tìm cho cậu con tư sản của mình một cô vợ xứng đáng; và dĩ nhiên, kết quả là các mâu thuẫn cố hữu của chế độ hôn nhân cá thể đã phát triển đầy đủ nhất: chồng tạp hôn bừa bãi, vợ ngoại tình lu bù. Nhà thờ Thiên Chúa giáo cấm li hôn có lẽ chỉ vì nó thấy rằng không có cách gì trị được ngoại tình, hệt như không có cách gì trị được cái chết. Mặt khác, ở các nước theo đạo Tin Lành, thường thì cậu con tư sản được ít nhiều tự do để chọn vợ từ những người cùng giai cấp; nên có thể có một mức độ yêu đương nào đó trong việc hôn nhân, và thực ra nó luôn được giả định - một cách phù hợp với tinh thần đạo đức giả của đạo Tin Lành - để giữ thể diện. Ở đây, việc tạp hôn của chồng thì lặng lẽ hơn, và sự ngoại tình của vợ cũng ít phổ biến hơn”.
Chế độ hôn nhân một vợ một chồng trong giai đoạn này còn thể hiện công khai tính gia trưởng của người chồng, người cha trong gia đình và đồng thời còn thể hiện sự bất bình đẳng trong quan hệ vợ, chồng, con cái, giữa con cái với nhau, coi rẻ quyền lợi của con. Hôn nhân tư sản được xác lập trên mối quan hệ tài sản, địa vị, sự thiệt hơn trong quan hệ kinh tế “ trong hai trường hợp đều dựa trên địa vị giai cấp của đôi bên và vì vậy hôn nhân luôn luôn là hôn nhân tính toán”. Về hậu quả của hôn nhaaqn tư sản Angghen viết: Thông thường biến thành sự mại dâm ti tiện nhất-có khi là của cả đôi bên, nhưng thông thường là về phía người vợ; Nếu ở đây đàn bà có khác với gái thông thường thì chỉ vì người đó không bán thể xác mình từng thời gian một như người nữ công nhân làm thuê bán lao động của mình, mà bán mĩa mãi như một nô lệ.
Từ sự phân tích những hạn chế cơ bản của chế độ HN&GĐ tư sản, Mác-Angghen đã chỉ ra một hình thức hôn nhân một vợ một chồng đích thực, tiến bộ đã nảy sinh mà chúng ta cần thực hiện và củng cố. Đó là hôn nhân “ chỉ có trong các giai cấp bị áp bức, bởi vậy hiện nay chỉ có trong giai cấp vô sản thì tình yêu nam nữ mới có thể trở thành một quy tắc và trong thực tế đang là một quy tắc trong các mối quan hệ đối với phụ nữ mặc dù quan hệ đó được chính thức thừa nhận hay không” và “hôn nhân của người vô sản là hôn nhân một vợ một chồng theo nghĩa ngữ nguyên, chứ tuyệt nhiên không phải theo tính tịch sử của danh từ đó ”.
Cuộc cách mạng xã hội là cuộc cách mạng sâu sắc và triệt để nhất, trong cuộc cách mạng đó chắc chắn là các cơ sở kinh tế trước đây của chế độ một vợ một chồng, cũng như cái bổ sung cho nó là tệ ngoại tình và nạn mại dâm sẽ bị tiêu diệt. Vậy chế đọ một vợ một chồng tồn tại hay không khi mà những nguyên nhân kinh tế sinh ra nó đã không còn. Angghen khẳng định: chế đọ đó nhẳng những sẽ không mất đi mà trái lại chỉ có bắt đầu từ lúc đó nó mới được hoàn thiện trọn vẹn. Thật vậy, nếu các tư liệu sản xuất mà được chuyển thành tài sản xã hội thì chế độ lao động làm thuê giai cấp vô sản cũng biến mất, và đồng thời cũng không còn tình trạng nhiều phụ nữ phải bán mình vì đồng tiền, vì cuộc sống quá khó khăn nữa. Tệ mại dâm sẽ mất đi và chế độ một vợ một chồng không những không suy tàn, mà cuối cùng lại trở thành hiện thực, ngay cả đối với đàn ông nữa. Lúc này hôn nhân mới có điều kiện thể hiện đúng bản chất của nó là hôn nhân một vợ một chồng đích thực, phát sinh và tồn tại trên cơ sở tình yêu chân chính giữa nam và nữ, bình đẳng và nhằm xây dựng gia đình để cùng nhau thỏa mãn nhu cầu về tinh thần và vật chất.
Những luận điểm của Mác và Angghen đã được Lênin tiếp tục phát triển trên cơ sở thừa nhận quyền tự do hôn nhân, ông khẳng định về quyền tự do li hôn: “vấn đề li hôn cho ta thấy rõ rằng một người dân chủ, một người xã hội chủ nghĩa không thể nào, ngay từ bây giờ không đòi hỏi quyền li hôn hoàn toàn tự do, vì thiếu tự do ấy thì giới bị áp bức, giới phụ nữ phải gánh thêm một nối nhục nữa”. Lênin cũng đặc biệt nhấn mạnh về bình đẳng giữa nam và nữ, coi giải phóng phụ nữ là một nhiệm vụ của người cộng sản và “chỉ khi nào có sự cải tạo toàn khối nền kinh tế trở thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa quy mô lớn thì mới bắt đầu thật sự giải phóng phụ nữ và mới có chủ nghĩa cộng sản thật sự được”.
Những tư tưởng cơ bản trên đấy của nhủ nghĩa Mác-Lênin chính là cơ sở lý luận để hình thành những nguyên lý chỉ đạo cho việc thực hiện những quan hẹ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa dân chủ, tiến bộ.
3_ Lịch sử phát triển của chế độ hôn nhân một vợ một chồng.
Chế độ hôn nhân thời kỳ nguyên thủy.
Trước chủ nghĩa Mác-lênin, có quan điểm cho rằng hình thái cổ xưa nhất của cuộc sống xã hội loài người là gia đình, sau gia đình là bộ lạc, rồi mới đến Nhà nước. Angghen là người đầu tiên chứng minh rằng nhannj định trên là hoàn toàn sai lầm. Qua tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước” ông đã phân tích nguồn gốc hôn nhân và gia đình từ giai đoạn thấp nhất của xã hội loài người (khi chưa có sự phân công lao động), đặc điểm của giai đoạn này là sự quan hệ tính giao bừa bãi, không có hôn nhân, không có gia đình và bộ lạc như là một đơn vị duy nhất không tách rời của xã hội nguyên thủy. Trong bước tiếp theo của sự phát triển lịch sử hình thái hôn nhân và gia đình không như chúng ta thấy bây giờ mà đó là chế độ quần hôn. Trong chế độ nguyên thủy hôn nhân và gia đinh đã trải qua các hình thái hôn nhân và gia đình khác nhau: gia đình huyết tộc, gia đình Punalua, gia đình đối ngẫu, gia đình cá thể. Đến hình thái gia đình đối ngẫu thì chế độ quần hôn vẫn tồn tại cho nên không thể có chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Như vậy hôn nhân đối ngẫu không phải là hôn nhân một vợ một chồng, hôn nhân một vợ một chồng là hôn nhân đặc trưng cho một chế độ xã hội khác.
Khi sự phân hóa lao động đã ở mức cao và của cải trong xã hội đã có dư thừa, khi đó mới bắt đầu xuất hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng, bởi vì trong giai đoạn này người chồng là lao động chính và của cải của anh ta làm ra ngày càng nhiều, còn người vợ thì số của cải làm ra vẫn không tăng và “của cải tăng dần lên thì một mặt nó làm cho người chồng có một địa vị quan trọng hơn người vợ và mặt khác của cải đó khiến cho người chồng nảy ra xu hướng lợi dụng địa vị vững vàng hơn để thay đổi luật lệ thừa kế cổ truyền đặng làm lợi cho con cái minh…” tuy nhiên hôn nhân một vợ một chồng ở đây không thể được hiểu theo nghĩa đúng bản chất hôn nhân một vợ một chồng, bởi vì chế độ một vợ một chồng trong gia đình cá thể không phải do kết quả của tình yêu xây dựng nên mà trong cuộc hôn nhân có sự tính toán kinh tế. Chế độ một vợ một chồng xuất hiện đầu tiên trong gia đình cá thể và có nhiều biến dạng trong các xã hội có giai cấp đối kháng về sau không phải là sự liên kết trên cơ sở tình cảm mà là dự trên cơ sở tài sản.
3.2. Chế độ hôn nhân thời kỳ phong kiến Việt Nam.
Xã hội phong kiến thừa nhận chế độ đa thê nên không thể có hôn nhân một vợ một chồng. Có thể lấu một vài dẫn chứng từ các điều luật trong một số bộ luật phong kiến như sau:
3.2.1. Theo Quốc triều hình luật.
Điều 309 quy định: Ai lấy nàng hầu lên làm vợ thì xử tội phạt; vì quá say đắm nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì xử tội biếm (phải có vợ thưa thì mới bắt tội).
Điều 310 quy định: vợ cả, vợ lẽ phạm phải điều nghĩa tuyệt mà người chồng phải dấu không bỏ thì xử tội biếm, tùy theo việc nặng nhẹ.
3.2.2. Theo Dân luật Bắc (DLBK) kỳ và Hoàng việt trung kỳ bộ luật (HVTKBL)
Điều 80(DLBK) và 79 (HVTKBL) quy định: cấm không được lấy vợ thứ nếu chưa lấy vợ chính.
Điều 81 (DLBK) quy định: Khi nào tiêu hôn với vợ chính thì người chồng có thể láy người khác làm vợ chính được. Nếu vợ chính mệnh một thì phải đợi hết tang một năm mới được tái thú.
Điều 92 (DLBK) và 93 (HVTKBL) quy định: vợ chính và vợ thứ phải giữ tiết và phục vụ chồng, vợ thứ phải phục tùng và kính trọng vợ chính.
Điều 101 (DLBK) quy định: Nếu được sự đồng ý công nhiên hoặc mặc nhiên của chồng thì vợ chính hoặc vợ thứ được làm một chức nghiệp hoặc bất cứ công nghệ gì, nếu chồng không đồng ý cho làm thì vợ chính, vợ thứ có thể chứng minh rắng làm việc đó là vì lợi ích của gia đình và xin quan chánh án cho làm công việc đó.
Qua các điều luật nêu trên có thể thấy rằng xã hội phong kiến thừa nhận và bảo hộ chế độ đa thê, một người đàn ông có thể lấy thê thiếp, nhưng ngược lại người phụ nữ phải chung thủy tuyệt đối với chồng, những vi phạm của người phụ nữ sẽ phải chịu những hình phạt rất hà khắc. Như vậy trong xã hội phong kiến không có khái niệm hôn nhân một vợ một chồng, quyền lợi của người phụ nữ không được bảo vệ, nó thể hiện rất rõ sự phân biệt về giới và sự gia trưởng của người chồng, người cha trong gia đình.
3.3. Chế độ hôn nhân ở Nam kỳ thời Việt nam cộng hòa.
Ở miền Nam, trong thời kỳ dưới chế độ Việt Nam Cộng hoà thì sự bình đẳng giữa vợ và chồng đã được pháp luật nghi nhạn và bảo vệ. Tại điều 1 Luật gia đình 1959 có quy định bãi bỏ chế độ đa thê, Dân luật Sài Gòn tại Điều 9 quy định: “Luật pháp không chấp nhận chế độ đa thê; Không ai được phép tái hôn nếu hôn thú trước chưa được đoạn tiêu”. Theo Luật gia đình năm 1959, Sắc luật năm 1964, Bộ dân luật Sài Gòn năm 1972, nghĩa vụ chung thuỷ có tính chất bắt buộc đối với cả hai vợ chồng: “Vợ chồng phải lấy tình nghĩa thủy chung mà đối đãi với nhau”; và “Vợ chồng có nghĩa vụ chung thuỷ với nhau”. Chế tài đặt ra đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ này là rất chặt chẽ nhằm ngăn ngừa và trừng phạt các hành vi ngoại tình. Trong Luật đã quy định chế tài về hình sự: “Chồng hay vợ có quyền cấm người hôn phối không được giao du một cách quá thân mật với người nào khác mà họ xét có hại cho sự chung thuỷ vợ chồng. Nếu mặc dù có sự cấm đoán đó, người chồng hay người vợ cùng người tòng phạm tiếp tục gặp gỡ nhau một mình một cách bất chính tại nơi công cộng hay không công cộng và nếu sự vi phạm đó bị thừa phát lại hay viên chức hình cảnh theo yêu cầu của người hôn phối kia lập vi bằng kiểm chứng hai lần trong thời hạn một năm, người vi phạm và người tòng phạm có thể bị phạt tiền từ 1000 đến 50000 đồng. Nếu tái phạm thì có thể bị phạt giam từ một đến sáu tháng”.(1).
Như vậy có thể thấy nguyên tắc một vợ một chồng dưới thời Việt Nam cộng hòa đã được quy định trong văn bản pháp luật, và đã có các chế xử lý vi phạm nhằm bảo đảm cho nguyên tắc hôn nhân tiến bộ này được thực hiện. Tuy nhiên, sự vi phạm của người vợ hoặc người chồng chỉ bị truy tố khi có đơn kiện của bên kia. Người tòng phạm vẫn phải chịu chế tài. Ngoài ra, lỗi phạm gian là căn cứ để người hôn phối kia yêu cầu ly thân. Sắc luật năm 1964 và Bộ dân luật Sài Gòn năm 1972 đã huỷ bỏ tất cả chế tài về hình sự của Luật gia đình năm 1959 nhưng trong Bộ luật hình Canh Cải vẫn quy định sự trừng trị tội ngoại tình của người vợ. Sự ngoại tình còn là một duyên cớ ly hôn. Qua đó có thể thấy rằng trong thời kỳ này, pháp luật đẫ không công nhận chế độ đa thê, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng đã được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều điểm chưa phù hợp trên thực tế.
3.4. Chế đô hôn nhân sau cách mạng tháng Tám 1945.
3.4.1. Trước năm 1959.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, do hoàn cảnh đất nước đang có chiến tranh, Nhà
(1) Vũ Văn Mẫu, “Việt Nam dân luật lược giảng”, Sài Gòn 1973, tr.97).
Nước ta chưa ban hành Luật hôn nhân và gia đình, tuy nhiên Chính Phủ cũng đã ban hành ra các Sắc lệnh điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình trong giai đoạn này. Theo Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 và sắc lệnh số 146 ngày 27/11/1950 thì tàn dư của chế độ phong kiến, sự công nhận về chế độ đa thê đã bị xóa bỏ hoàn toàn. Như vậy chế độ hôn nhân một vợ một chồng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Quyền lợi của người phụ nữ đã được đảm bảo. Điều 9 Hiến pháp 1946 quy định: Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện. Như vậy quyền lợi của phụ nữ không những được Nhà nước thùa nhận và bảo về mà quyền này còn là một nguyên tắc Hiến định. Tuy nhiên, có thể thấy trong hôn nhân và gia đình thì quyền của người phụ nữ vần còn hạn chế, ví dụ theo quy định tại điều 3 và điều 4 Sắc lệnh số 97/SL quy định:
Điều 3: Trong thời kỳ tang chế vẫn có thể lấy vợ lấy chồng được. Song người vợ goá chỉ có thể lấy chồng sau 10 tháng kể từ ngày chồng chết. Nhưng trong Thời hạn ấy, người vợ hoá vẫn có thể tái giá nếu chưng rõ được rằng mình không có thai, hoặc là đã có thai với với chồng trước để tránh sự lẵn lộn về con cái.
Điều 4: Người đàn bà ly dị có thể lấy chồng khác ngay sau khi có án tuyên ly dị, nếu dẫn chứng rằng mình không có thai hoặc đương có thai.
Như vậy theo Sắc lệnh này, sau khi chồng chết có nghĩ là đã chấm dứt hôn nhân trong thực tế nhưng người vợ nếu lấy chồng khác thì buộc phải minh được rằng mình không đang mang thai đứa con của người chồng trước và trong trường hợp li hôn và khi bản án đã có hiệu lực pháp luật cũng vậy người vợ vẫn phải chứng minh rằng mình đang không mạng thai. Đây là một hạn chế trong quy định về hôn nhân, và quyền lợi của người phụ nữ vẫn chưa được bình đẳng thật sự đối với đàn ông, nhưng dù sao đây cũng là một bước tiến vô cùng lớn của chế độ hôn nhân một vợ một chồng ở nước ta.
3.4.2.Từ 1959 đến nay.
Luật hôn nhân và gia đình ra đời trên cơ sở Hiến Pháp 1946, kế thừa và phát triển những tiến bộ của pháp luật nước ta về điều chỉnh các quan hệ trong HN&GĐ. Luật HN&GĐ 1959 thể hiện rất nhiều điểm tiến bộ trong việc bảo đảm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng cũng như đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của vợ chồng trong hôn nhân, đặc biệt là quyền lợi của người phụ nữ. Điều này được thể hiện qua các quy định tại các điều sau:
Điều 1: Nhà nước bảo đảm việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hoà thuận, trong đó mọi người đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ.
Điều 2: Xoá bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái.
Điều 3:Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ.
Điều 7: Việc để tang không cản trở việc kết hôn.
Như vậy vấn đề để tang chồng làm cản trở việc kết hôn hợp pháp với người khác của người vợ đã bị bãi bỏ, các vấn đề về chứng minh là có mang thai hay không của người vợ sau khi chồng chết hoặc sau khi bản án tuyên bố li hôn của tòa án có hiệu lực đã không còn, quyền của người phụ nữ đã được nâng lên và được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật. Tất cả những điều này thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với nhân dân đặc biệt là đối với quyền lợi của phụ nữ. Đến đây, chế độ hôn nhân một vợ một chông đã được củng cố thêm một bước, nguyên tắc này đã được đảm bảo thực hiện từ cả hai phía vợ và chồng.
Năm 1975 đất nước thống nhất, Hiến pháp 1946 cầ phải được sủa đổi để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước, trước yêu cầu đó, năm 1980 bản Hiến pháp mới đã ra đời, trong đó quy định một số điều về hôn nhân và gia đình:
Điều 64 (Hiến pháp 1980).
“Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”.
Trước việc hiến pháp mới được ban hành và năm 1986 đất nước ta tiến hành đổi mới cũng cần có những quy định mới về quan hệ hôn nhân và gia đình cho phù hợp với nền kinh tế mới-kinh tế thị trường. Luật HN&GĐ năm 1986 quy định cụ thể hơn: “Nhà nước bảo đảm thực sự chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, nhằm xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc, bền vững. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc các tôn giáo khác nhau, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo được tôn trọng và bảo vệ”.( Điều 1 Luật HN&GĐ 1986).
Điều 4 (Luật HN&GĐ 1986).
Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi ; cấm cưỡng ép ly hôn. Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. Cấm ngược đãi, hành hạ cha, mẹ, vợ, chồng, con cái.
Nhìn chung việc thực hiện nguyên tác một vợ một chồng được Luật đảm