Nhìn lại lịch sửngành thương mại Việt Nam trước cách mạng tháng 8 năm
1945 chúng ta nhận thấy: hoạt động thương mại dịch vụtrong thời kỳnày bịthu hẹp
trong thịtrường địa phương nhỏbé, làm môi giới cho những người sản xuất nhỏtrao
đổi hàng hóa và làm môi giới cho địa chủphong kiến đem bán một phần sản phẩm
thặng dưchiếm đoạt được của người lao động. Sản xuất hàng hóa sản đơn và một thị
trường trong nước chật hẹp, chia cắt là đặc điểm nỗi bật của kinh tếViệt Nam thời kỳ
này. Ngành thương mại Thành phố Đà Nẵng cũng không nằm ngoài bối cảnh chung
đó.
Tuy nhiên từthếkỷ17, các nhà buôn Hà Lan đã có mặt tại Hội An và thiết lập
quan hệmua bán. Một sốnước bán sản phẩm công nghiệp của mình cho Việt Nam và
mua hàng thủcông nghiệp cùng sản vật thiên nhiên. Quan hệhàng hóa - tiền tệ đã phát
triển thêm một bước, họat động kinh doanh thương mại được hình thành.
Ngay sau khi giải phóng, ngành thương mại Thành phố Đà Nẵng bắt tay ngay
vào việc thực hiện nhiệm vụkhắc phục hậu quảchiến tranh, xây dựng phát triển đất
nước. Hệthống thương nghiệp quốc doanh, hợp tác xã mua bán đã hình thành rộng
khắp từthành phố đến nông thôn, từ đồng bằng lên miền núi. Việc cung ứng, phục vụ
nguyên vật liệu cho sản xuất, cung cấp hàng hóa tiêu dùng phục vụcho nhu cầu ăn, ở,
đi lại, học hành, chữa bệnh, cho nhân dân đều do hệthống thương nghiệp quốc
doanh và hợp tác xã đảm nhận.
Thời kỳtừnăm 1986 – 1990: là giai đoạn chuyển đổi cơchế, từchổphân phối
giao nộp theo chỉtiêu chuyển sang hình thức kinh doanh đảm bảo hiệu quảtheo cơchế
thịtrường: từchổlưu thông hàng hóa chủyếu do thương mại Nhà nước đảm nhiệm
chuyển sang nền thương mại với sựtham gia của tất cảcác thành phần kinh tế.
Giai đoạn 1991 – 1998: Hệthống các nước xã hội chủnghĩa Liên Xô và Đông
Âu tan rã, hoạt động xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn, hệthống thịtrường bịchia
cắt gần nhưhoàn toàn, các DNTM trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng phải tựtìm tòi thị
trường mới, phương thức kinh doanh mới.
89 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2135 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp cổ phần thương mại trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI
1.1.Khái niệm về vốn lưu động và vốn lưu động trong các doanh nghiệp cổ phần
thương mại
1.1.1.Khái niệm về vốn lưu động
a.Khái niệm về vốn lưu động
Mỗi doanh nghiệp muốn tiến hành kinh doanh, ngoài tư liệu lao động ra còn
phải có đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia quá trình sản xuất không
giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ
thông qua quá trình chế biến hợp thành thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao
phí mất đi trong quá trình sản xuất, đối tượng lao động chỉ có thể tham gia một chu kỳ
sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau phải dùng một đối tượng lao động khác. Cũng do
đặc điểm trên nên toàn bộ giá trị của đối tượng lao động được chuyển dịch toàn bộ một
lần vào sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện.
Đối tượng lao động trong doanh nghiệp được biểu hiện thành hai bộ phận: một
bộ phận là những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục
(nguyên nhiên vật liệu ...); một bộ phận khác là những vật tư đang trong quá trình chế
biến (sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm). Hai bộ phận này biểu hiện dưới hình
thái vật chất gọi là tài sản lưu động. Để phục vụ cho quá trình sản xuất còn cần phải dự
trữ một số công cụ, dụng cụ, phụ tùng thay thế, vật đóng gói cũng được coi là tài sản
lưu động.
Mặt khác quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu
thông. Trong quá trình lưu thông, còn phải tiến hành một số công việc như chọn lọc,
đóng gói, xuất giao sản phẩm và thanh toán... do đó trong khâu lưu thông hình thành
một số khoản hàng hoá và tiền tệ, vốn trong thanh toán...
Tài sản lưu động nằm trong quá trình sản xuất và tài sản lưu động nằm trong
quá trình lưu thông thay chỗ nhau vận động không ngừng nhằm đảm bảo cho quá trình
tái sản xuất được tiến hành liên tục và thuận lợi.
Như vậy, doanh nghiệp nào cũng cần phải cố một số vốn thích đáng để đầu tư
vào các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản đó được gọi là vốn lưu động
2
của doanh nghiệp. Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thái khác
nhau, bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư hàng hoá và cuối cùng lại
trở về trạng thái tiền tệ ban đầu của nó. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp diễn ra liên tục không ngừng, cho nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không
ngừng, có tính chất chu kỳ thành chu chuyển của tiền vốn.
Do sự chu chuyển không ngừng nên vốn lưu động thường xuyên có các bộ phận
tồn tại cùng một lúc dưới các hình thái khác nhau trong các lĩnh vực sản xuất và lưu
thông.
Tóm lại vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động
và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp thực
hiện được thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động lưu động toàn bộ giá trị ngay trong
một lần, tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất.
Qua phần trình bày trên có thể thấy trong cùng một lúc, vốn lưu động của doanh
nghiệp được phân bổ trên khắp các giai đoạn lưu động và tồn tại dưới những hình thái
khác nhau. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn
lưu động đầu tư vào các hình thái khác nhau đó khiến cho các hình thái có được mức
tồn tại hợp lý và đồng bộ với nhau. Như vậy, sẽ khiến cho việc chuyển hoá hình thái
của vốn trong quá trình lưu động được thuận lợi. Nếu như doanh nghiệp nào đó, không
đủ vốn thì tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp khó khăn, và do đó quá trình sản xuất cũng bị
trở ngại hoặc gián đoạn.
Vốn lưu động còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận động của vật
tư hàng hóa, tức là phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm dự trữ, sản xuất, tiêu thụ
của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn là phản ánh sự vận động
của vật tư hàng hóa. Nhìn chung vốn lưu động nhiều ít là phản ánh số lượng vật tư sử
dụng tiết kiệm hay không, thời gian nằm ở khâu sản xuất và lưu thông sản phẩm có
hợp lý hay không hợp lý. Bởi vậy thông qua tình hình lưu động vốn lưu động còn có
thể đánh giá một cách kịp thời đối với các mặt mua sắm dự trữ, sản xuất và tiêu thụ
của doanh nghiệp.
b.Ý nghĩa của vốn lưu động
Vốn lưu động là yếu tố không thể thiếu được đối với bất kỳ một doanh nghiệp
nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.Vốn lưu động cùng một lúc được
3
phân bổ khắp các giai đoạn sản xuất và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Muốn
cho quá trình sản xuất và tái sản xuất được liên tục thì doanh nghiệp phải có đủ vốn
đầu tư vào các hình thái đó để cho nó có được một mức tồn tại hợp lý và đồng bộ, từ
đó giúp cho việc luân chuyển vốn được thuận lợi. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì
sẽ gặp không ít khó khăn trong khâu tổ chức sử dụng vốn và gây gián đoạn cho tiến
trình sản xuất kinh doanh.Vốn lưu động còn là công cụ để phản ánh quá trình vận động
của vật tư hay khác hơn là kiểm tra và phản ánh quá trình mua sắm, dự trữ, tiêu thụ.
Do đó nó là điều kiện cần và đủ cho hoạt động sản suất kinh doanh. Một nguồn lực dồi
dào về vốn lưu động sẽ giúp cho doanh nghiệp tự chủ trong quá trình kinh doanh, nắm
bắt được các cơ hội tốt dể có thể đầu tư, tìm kiếm nguồn lợi cho doanh nghiệp mình.
Đồng thời với việc nắm bắt đựơc tình hình biến động của thị trường giúp cho hoạt
động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Và ngược lại, trong quá trình kinh doanh thì
doanh nghiệp cũng không ít khi trường hợp mất mát, rủi ro, giảm giá,. ..Nếu doanh
nghiệp không đủ vốn lưu động để đối phó thì có thể rơi vào tình trạng khó đứng vững
trong nền kinh tế thị trường như hiện nay. Do đó vốn lưu động là yếu tố nâng cao tính
cạnh tranh của doanh nghiệp.
c.Các nhân tố ảnh hưởng
Tùy thuộc vào các nhân tố như qui mô sản xuất, uy tín, các mối quan hệ trong
quá trình kinh doanh, đặc điểm của từng ngành và các điều kiện khách quan của nền
kinh tế trong khu vực mà nó tác động một cách trực tiếp lên lượng vốn lưu động của
mỗi doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp nhỏ thì khả năng phát triển việc đầu tư vào tài sản cố
định là rất khó do qui mô không bảo đảm, nên phần lớn chỉ nhờ vào sự vận động của
vốn lưu động.Vì vậy, các doanh nghiệp nhỏ cần một tỷ lệ vốn lưu động cao chiếm
trong tổng số tài sản lớn hơn các doanh nghiệp lớn có khả năng đầu tư vào tài sản cố
định. Bên cạnh đó, mỗi ngành khác nhau đều có đặc điểm kinh doanh riêng nên lượng
vốn lưu động cần cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng khác nhau. Mặt khác, các
mối quan hệ của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng lớn đến lượng vốn lưu động. Nếu
doanh nghiệp có uy tín trên thị trường, có mối quan hệ tốt với nhà cung ứng, với khách
hàng,...thì nhu cầu về vốn lưu động cũng ít đi (xem xét giữa các doanh nghiệp đồng
nhất). Ngoài ra, nếu nền kinh tế ổn định thì doanh nghiệp cũng yên tâm hơn, nhu cầu
về vốn lưu động lúc đó cũng sẽ thấp hơn.
4
1.1.2.Vốn lưu động trong doanh nghiệp cổ phần thương mại
a.Tài chính và các quan hệ tài chính trong các doanh nghiệp cổ phần thương mại
Tài chính là một hệ thống các mối quan hệ tiền tệ nảy sinh trong quá trình phân
phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quóc dân nhằm hình thành và sử dụng các quỹ
tiền tệ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh và thực hiện các chức năng quản lý
nhà nước của doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền với sự ra
đời của nền kinh tế hàng hóa tiền tệ. Mức độ phát triển của tài chính trong doanh
nghiệp phụ thuộc vào tính chất và nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Nền
kinh tế bao cấp đã sản sinh ra cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp là bao cấp. Nền
kinh tế thị trường đã làm xuất hiện hàng loạt các quan hệ tài chính mới. Do vậy tính
chất và phạm vi của hoạt động tài chính doanh nghiệp cũng có những thay đổi đáng
kể.
Tài chính doanh nghiệp là tài chính của những tổ chức, các đơn vị sản xuất kinh
doanh có tư cách pháp nhân. Tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng trong hệ
thống tài chính quốc gia, ở đó diễn ra các quá trình sản xuất kinh doanh như: đầu tư,
cung ứng đầu vào, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ ra thị trường. Trong đó sự chu
chuyển của vốn luôn gắn liền với sự vận động của tài sản, vật tư hàng hóa. Như vậy
xét về mặt bản chất thì các mối quan hệ tiền tệ và quỹ tiền tệ là hình thức biểu hiện bên
ngoài của tài chính doanh nghiệp, mà đằng sau nó ẩn chứa những quan hệ kinh tế phức
tạp, những luồng dịch chuyển giá trị gắn liền với việc tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ.
Sự vận động đó không chỉ bó hẹp trong một chu kỳ kinh doanh mà trực tiếp hoặc gián
tiếp liên quan đến tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Hay nói một cách
khác, sự vận động đó làm phát sinh ra các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong
các khâu của quá trình tái sản xuất giữa các doanh nghiệp với các đối tác trong nền
kinh tế thị trường. Những quan hệ đó tuy chứa đựng những nội dung kinh tế khác nhau
những chúng có những đặc trưng giống nhau, luôn tồn tại và phát triển song song với
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.Các quan hệ kinh tế đó là:
- Nhóm các quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với nhà nước: Nhóm quan hệ
này phát sinh trong quá trình phân phối và tái phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân giữa ngân sách nhà nước và doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà
5
nước, quan hệ này có tính hai chiều: nhà nước cấp vốn cho doanh nghiệp hoạt động,
doanh nghiệp có trách nhiệm sử dụng vốn có hiệu quả và bảo toàn vốn, đồng thời có
trách nhiệm nộp đầy đủ các khoản vào nhân sách nhà nước; còn đối với các doanh
nghiệp cổ phần thương mại thì quan hệ này biểu hiện cụ thể thông qua các khoản thuế
mà Doanh nghiệp phải nộp vào ngân sách nhà nước.
- Quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp với thị trường tài chính: Doanh nghiệp
thương mại thực hiện quá trình trao đổi mua bán các sản phẩm nhằm thỏa mãn mọi
nhu cầu về vốn của mình. Trong quá trình đó doanh nghiệp luôn phải tiếp xúc với thị
trường tài chính mà chủ yếu là thị trường tiền tệ và thị trường vốn
+ Thị trường tiền tệ: Thông qua hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp thương mại
có thể tạo được nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh
của mình; đồng thời các doanh nghiệp phải mở tài khoản ở một ngân hàng nhất định
để thực hiện các giao dịch mua bán qua chuyển khoản, do vậy mối quan hệ tài chính
này trở hành mối quan hệ vốn có tính bền vững.
+ Thị trường vốn: Doanh nghiệp cổ phần có thể tạo được nguồn vốn dài hạn
bằng cách phát hành chứng khoán như cổ phiếu, kỳ phiếu; đồng thời có thể tham gia
kinh doanh chứng khoán trên thị trường này để kiếm lời.
- Quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp với các thị trường khác: Với tư cách là
một chủ thể kinh doanh, doanh nghiệp thương mại quan hệ với thị trường cung cấp
đầu vào và thị trường phân phối đầu ra. Đó là thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường
sức lao động. Thông qua thị trường này, doanh nghiệp có thể xác định đựơc nhu cầu
sản phẩm và dịch vụ cung ứng; trên cơ sở đó doanh nghiệp xác định được số tiền đầu
tư cho kế hoạch kinh doanh, tiếp thị quảng cáo nhằm thỏa mãn nhu cầu thị trường và
đạt lợi nhuận cao nhất với chi phí thấp nhất, nhờ đó doanh nghiệp có thể đứng vững và
phát triển trong quá trình cạnh tranh.
b.Các hình thức huy động vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp cổ phần thương
mại
Nhiệm vụ cơ bản của hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp cổ phần
thương mại nói riêng và các doanh nghiệp cổ phần nói chung là đảm bảo cho doanh
nghiệp có đầy đủ, kịp thời số vốn tối thiểu, cần thiết và hợp pháp để doanh nghiệp có
thể hoàn thành tốt nhiệm vụ hoạt động sản xuất kinh doanh
6
Vốn kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong quá trình kinh doanh cũng như
cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có đủ vốn là điều kiện cần
thiết để biến mục tiêu trong kinh doanh trở thành hiện thực, nhằm đem lại lợi nhuận
cao cho doanh nghiệp. Trái lại, việc lựa chọn mục tiêu kinh doanh là lý tưởng nhưng
sễ không trở thành hiện thực nếu nguồn vốn không đáp ứng đủ mọi nhu cầu kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Vốn góp cổ đông: Trong nền kinh tế thị trường, tùy theo loại hình doanh
nghiệp và hình thức sở hữu mà doanh nghiệp có thể huy động vốn kinh doanh từ nhiều
nguồn khác nhau. Đối với doanh nghiệp cổ phần, nguồn vốn chủ yếu là do các cổ đông
đóng góp dưới hình thức mua cổ phần. Đây không phải là các khoản nợ nên các doanh
nghiệp cổ phần được toàn quyền sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà không
phải lo trả cho sở hữu của nó. Đặc điểm này cho thấy mức độ tự chủ trong các doanh
nghiệp cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn này. Một doanh nghiệp cổ phần có
vốn góp cổ phần càng lớn thì mức độ tự chủ về vốn càng cao và ngược lại. Không thể
nói rằng doanh nghiệp cổ phần có tính tự chủ về vốn cao trong khi phần lớn tài sản của
nó được tài trợ bởi nguồn vốn vay nợ hoặc chiếm dụng từ bên ngoài.
- Phát hành cổ phiếu: Các doanh nghiệp cổ phần có thể phát hành cổ phiếu
thông qua thị trường chứng khoán hoặc phát hành trực tiếp cho các cổ đông của doanh
nghiệp. Nếu phát hành thông qua thị trường chứng khoán thì doanh nghiệp cần niêm
yết các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh, kết quả hoạt động kinh doanh để
các nhà đầu tư có thể tham khảo đánh giá triển vọng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
có được quyền phát hành cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán hay không tất cả
đều phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có đáp ứng đầy đủ những điều kiện mà cơ quan
quản lý là Ủy ban chứng khoán Nhà nước đặt ra hay không. Nếu đáp ứng không đầy
đủ điều kiện thì doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu thông qua sở giao dịch chứng
khoán dưới hình thức trực tiếp; các cổ đông trong trường hợp này có thể là công nhân
viên của doanh nghiệp hoặc các đối tác thường xuyên cung cấp nguyên vật liệu hoặc
mua hàng của doanh nghiệp
- Phát hành trái phiếu: Nếu vốn góp cổ phần không đủ trang trãi nhu cầu kinh
doanh, doanh nghiệp cổ phần có thể huy động thêm vốn kinh doanh bằng cách phát
hành trái phiếu. Trái phiếu là một loại hình chứng khoán mà người phát hành vay nó
và có trách nhiệm thanh toán cả tiền gốc lẫn lãi cho chủ dở hữu trái phiếu khi đến hạn.
7
Đối với các doanh nghiệp cổ phần việc phát hành trái phiếu để vay nợ có một
số ưu điểm sau:
+ Chi phí vay nó bằng trái phiếu là cố định, không phụ thuộc vào kết quả kinh
doanh, trong khi chi phí sử dụng vốn từ phát hành cổ phiếu lại phụ thuộc vào lợi nhuận
đạt được, nên chi phí sử dụng vốn bằng phát hành cổ phiếu cao hơn so với phát hành
trái phiếu.
+ Việc phát hành trái phiếu giúp doanh nghiệp tăng vốn kinh doanh mà không
bị ảnh hưởng đến việc phân chia quyền kiểm soát doanh nghiệp.
+ Phát hành trái phiếu là hình thức vay nợ dài hạn nên chi phí này được tính
vào chi phí hoạt động tài chính, doanh nghiệp được tính chi phí này dến lợi tức chịu
thuế. Đây là lợi thế lớn so với hình thức huy động vốn bằng cổ phiếu (cổ tức chia cho
cổ đông không đựơc trừ ra khỏi lợi tức chịu thuế)
Tuy nhiên so với phát hành cổ phiếu, hình thức huy động bằng trái phiếu cũng
có một số hạn chế như:
+ Trái phiếu là hình thức vay nợ có thời hạn nên doanh nghiệp phải có kế hoạch
sử dụng và trả nợ phù hợp
+ Nếu doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ thì doanh nghiệp vẫn phải có trách
nhiệm thanh toán với trái chủ
- Vốn tự có: Đây là số vốn mà doanh nghiệp tích lũy được và được bổ sung từ
kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh
Mặt khác khi nguồn vốn tài chính của doanh nghiệp đã được huy động với một
cơ cấu tối thiểu và chi phí vốn thấp nhất thì nhiệm vụ quan trọng hơn đối với hoạt
động tài chính của doanh nghiệp còn là:
+ Doanh nghiệp cần đầu tư vào đâu và đầu tư như thế nào cho phù hợp với hình
thức kinh doanh mà doanh nghiệp đã chọn để đạt được mục tiêu kinh doanh.
+ Doanh nghiệp quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn như thế nào để đưa ra các
quyết định thu chi phù hợp
c. Đặc điểm của vốn lưu động trong doanh nghiệp cổ phần thương mại
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm vận
động của vốn lưu động luôn chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động,
vốn lưu động luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện.
Tiền NVL, CCDC BTP, SDPP thành phẩm Tiền mua bán
8
Đặc điểm của vốn lưu động là luân chuyển toàn bộ một lần giá trị vào giá trị
sản phẩm và kết thúc một vòng tuần hoàn vốn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Trong các doanh nghiệp, người ta thường chia TSLĐ làm 2 loại đó là TSLĐ
dùng trong sản xuất và TSLĐ dùng trong lưu thông.
- TSLĐ dùng trong khâu dự trữ sản xuất hoặc chế biến: NVL chính, NVL phụ
công cụ dụng cụ; phụ tùng thay thế, bao bì vật liệu...
- TSLĐ dùng trong khâu lưu thông bao gồm: các sản phẩm, thành phẩm chờ
tiêu thụ, vốn bằng tiền; các khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí chờ kết
chuyển, chi phí trả trước được dùng cho việc lưu thông nhằm thúc đẩy việc SXKD
diễn ra liên tục.
Để có điều kiện tốt cho việc sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp đều phải
bỏ ra một số vốn nhất định tại thời điểm ban đầu. Vì vậy nói khác hơn rằng vốn lưu
động của doanh nghiệp là số vốn bằng tiền ứng trước về TSLĐ. Vốn lưu động thuần
của doanh nghiệp (vốn luân chuyển) được xác định bằng tổng giá trị tài sản lưu động
của doanh nghiệp trừ đi các khoản nợ ngắn hạn.
Để phù hợp với đặc điểm của TSLĐ, VLĐ của doanh nghiệp cũng luôn vận
động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh như dữ trữ sản xuất, sản xuất và lưu
thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và lặp lại theo chu kỳ hay còn gọi là tuần
hoàn chu chuyển vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, vốn lưu
động lại thay đổi hình thái biểu hiện và từ hình thái vốn bằng tiền ban đầu chuyển sang
hình thái vốn vật tư dự trữ và vốn sản xuất rồi cuối cùng lại trở về vốn bằng tiền ban
đầu. Sau mỗi chu kỳ tài sản sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng luân chuyển.
d.Vai trò của vốn lưu động trong doanh nghiệp cổ phần thương mại
Vốn lưu động là một nhân tố không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp là điều kiện cần và đủ cho hoạt động kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp được diễn ra một cách bình thường. Do đó doanh nghiệp nào cũng có
một số vốn lưu động thoả mãn đáng để mua sắm các loại tài sản. Trong đó TSLĐ sản
xuất và TSLĐ lưu thông thay thế nhau, vận động không ngừng để quá trình sản xuất
kinh doanh tiến hành thuận lợi. Nếu quy mô và khả năng vốn lưu động đủ lớn sẽ giúp
cho doanh nghiệp có nhiều thuận lợi hơn trong việc làm chủ sản xuất cũng như đẩy
mạnh tiêu thụ sản phẩm. Bởi vì giá cả thị trường do quy luật cung cầu tác động luôn
biến đổi liên tục, lúc cao lúc thấp. Việc nắm bắt được tình hình này giúp cho quá trình
9
sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn nữa, trong quá trình sản xuất kinh doanh
không thể không gặp những rủi ro mất mát hư hỏng, giá cả bị giảm mạnh. Nếu Doanh
nghiệp không có lượng vốn lưu động đủ lớn ở trường hợp này giúp cho quá trình sản
xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn nữa, trong quá trình sản xuất kinh doanh không
thể không gặp những rủi ro mất mát hư hỏng, giá cả bị giảm mạnh. Nếu Doanh nghiệp
không có lượng vốn lưu động đủ lớn ở trường hợp này sẽ làm cho Doanh nghiệp khó
đứng vững. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, cạnh tranh trong kinh doanh rất
gay gắt, vốn lưu động là yếu tố nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp, nâng
cao uy tín của doanh nghiệp trong thị trường.
Mặc khác, do đặc điểm tuần hoàn của vốn lưu động trong cùng một lúc nó phân
bổ trên các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau. Để tổ
chức hợp lý tuần hoàn của các tài sản ở các doanh nghiệp, để quá trình sản xuất kinh
doanh được diễn ra