Đề tài Những giải pháp và kiến nghị góp phần hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng Á Châu chi nhánh Sài Gòn

Hệ thống chấm điểm tín dụng của ACB là một công cụ quản lý chất lượng đối với từng khách hàng vay cũng như tòan bộ danh mục tín dụng. Nó giúp ngân hàng trong việc đánh giá rủi ro của từng khoản tín dụng. Hệ thống chấm điểm tín dụng của ACB là một phần mềm Excel và nhân viên chỉ cần nhập đầy đủ các thông tin cần thiết là phần mềm sẽ tự động chấm điểm và ra quyết định cấp tín dụng. Do vậy thông tin làm cơ sở dữ liệu cho việc chấm điểm tín dụng cũng đóng vai trò rất quan trọng, phải hết sức chính xác, cập nhật và đầy đủ. Muốn như thế công tác thu thập và phân tích thông tin phải được thực hiện theo một qui trình chặt chẽ và logic. Đến thăm thực địa của khách hàng để có sự xem xét và so sánh giữa những gì thấy được và những đánh giá trong quá trình phân tích thông tin. Kết hợp giữa phân tích tài liệu và đánh giá thực tế sẽ giúp nhân viên tín dụng có cái nhìn đầy đủ hơn về mức độ rủi ro, khả năng trả nợ của khách hàng nhằm ra quyết định đúng đắn và phù hợp đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và hạn chế được rủi ro cho ngân hàng.

doc79 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1992 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp và kiến nghị góp phần hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng Á Châu chi nhánh Sài Gòn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN I.TÍN DỤNG 1.Khái niệm: Tín dụng là một phạm trù kinh tế đã tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế xã hội. Về phương diện khoa học, có nhiều khái niệm về tín dụng: Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, tín dụng là quan hệ vay mượn và sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay mà trong đó 2 chủ thể này sẽ thoả thuận với nhau về thời hạn nợ cũng như mức lãi cụ thể mà người đi vay phải trả trong một kỳ trả nợ . Còn hiểu theo nghĩa rộng thì tín dụng là sự huy động điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn trong nền kinh tế. Thuật ngữ tín dụng xuất phát từ tiếng Latinh là Creditium có nghĩa là lòng tin và sự tín nhiệm. Cụ thể hơn trong quan hệ tín dụng, người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả đầy đủ cả vốn và lãi cho mình đúng hạn nên đem tài sản tiền bạc của mình ra cho người kia vay ( mặc dù ngày nay khi cho vay không hẳn hoàn toàn chỉ dựa vào lòng tin mà còn phải xét đến nhiều điều kiện khác như mục đích vay, khả năng tài chính, tài sản đảm bảo…) Hoạt động tín dụng được diễn ra qua 3 giai đoạn: Giai đoạn cấp tín dụng: đây là giai đoạn người cho vay chuyển giao vốn tín dụng cho người đi vay dưới hình thức bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Giai đoạn chuyển giao vốn tín dụng: đây là giai đoạn bên đi vay sử dụng vốn tín dụng vào mục đích kinh doanh, tiêu dùng hoặc các nhu cầu giao dịch khác trong nền kinh tế. Giai đoạn hoàn trả tín dụng: đây là giai đoạn hoàn trả vốn gốc và lãi cho người cho vay khi hết thời hạn vay. Tính hoàn trả và có lãi chính là đặc trưng cơ bản của tín dụng. Với các khái niệm khác nhau về tín dụng, dù ở phương thức sản xuất nào đi nữa, tín dụng bao giờ cũng có 3 đặc điểm sau: Tín dụng thể hiện sự chuyển giao vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc tài sản từ người cho vay sang người đi vay. Sự chuyển giao này thể hiện bằng sự thoả thuận về việc ứng trước tiền vay. Sự chuyển giao này chỉ mang tính chất tạm thời bởi chỉ chuyển giao quyền sử dụng vốn chứ không làm thay đổi quyền sở hữu vốn của người cho vay. Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải được hoàn trả, có nghĩa là sau một thời gian xác định cụ thể thì bên đi vay phải trả cho bên cho vay một số tiền lớn hơn số tiền vay ban đầu, phần chênh lệch hơn này gọi là lợi tức tín dụng hay còn được gọi là “lãi”. Lãi chính là giá cả của khoản vay. Điều này cho thấy giá trị của tín dụng không những được bảo toàn mà còn được nâng cao nhờ lợi tức tín dụng. Từ những phân tích trên cho thấy bản chất tín dụng là hệ thống các quan hệ kinh tế được hình thành thông qua quan hệ vay mượn giữa người đi vay và người cho vay, nhằm điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu đáp ứng nhu cầu về vốn cho sự phát triển của nền kinh tế. Ở Việt Nam theo luật 02/1997/QH 10 Luật các tổ chức tín dụng, được Quốc Hội thông qua ngày 12/12/1997 có quy định như sau : “Hoạt động tín dụng là việc các tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có ,nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”. “Cấp tín dụng là việc các tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng, và các nghiệp vụ khác…” 2.Vai trò của tín dụng: Trên cơ sở phát huy các chức năng vốn có, tín dụng thể hiện vai trò tích cực trong đời sống kinh tế xã hội như sau: 2.1.Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì sự hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả 3 giai đoạn: dự trữ, sản xuất, lưu thông. Cũng chính vì vậy mà hiện tượng thừa, thiếu vốn luôn xảy ra tại các doanh nghiệp. Khi đó, tín dụng sẽ góp phần điều tiết các nguồn vốn tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục không bị gián đoạn giúp giải quyết nhu cầu về vốn cho nền kinh tế bởi vốn kinh doanh chính là điều kiện và là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh doanh, quy mô tín dụng càng lớn thì khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế càng cao. Hơn nữa để thực hiện mục tiêu mở rộng sản xuất đối với từng doanh nghiệp, cải tiến công nghệ kỹ thuật hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh thì yêu cầu về nguồn vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Nếu chỉ trông chờ vào nguồn vốn tự có, vốn do doanh nghiệp tự tích luỹ thì doanh nghiệp sẽ mất rất nhiều thời gian. Do đó, tín dụng với tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung đầu tư phát triển, thông qua tín dụng cho phép doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích luỹ vốn, nhanh chóng đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế. Hoạt động tín dụng ngày nay phần lớn được tiến hành thông qua các tổ chức tài chính trung gian, các tổ chức tín dụng. Với trình độ chuyên môn hoá hoạt động của các tổ chức này ngày càng mang tính chuyên nghiệp cao nên phải có sự lựa chọn cân nhắc thận trọng trước khi cho vay nhằm đảm bảo tín dụng đầu tư đúng địa chỉ, theo đúng định hướng kinh tế đã đề ra, tín dụng tài trợ cho những ngành trọng điểm then chốt góp phần từng bước xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý là điều kiện thúc đẩy kinh tế tăng trưởng phát triển. Trong điều kiện hiện nay cùng với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng thì quá trình điều tiết vốn không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà hình thành nên các quan hệ tín dụng quốc tế trên cơ sở hợp tác có lợi là điều kiện khai thác nguồn vốn và công nghệ kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài. Trên cơ sở đó tín dụng còn góp phần phát triển các mối quan hệ đối ngoại. 2.2.Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả: Sự vận động của tín dụng luôn gắn liền với sự vận động của tiền tệ nhằm phục vụ cho các mối quan hệ vay trả lẫn nhau giữa các chủ thể trong nền kinh tế đồng thời tín dụng cũng tác động tích cực trở lại đối với tiền tệ góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả. Với chức năng tập trung và phân phối những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tín dụng đã trực tiếp giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Lượng tiền dôi thừa này nếu không được huy động và sử dụng kịp thời có thể gây ảnh hưởng xấu đến tình hình lưu thông tiền tệ dẫn đến mất cân đối trong quan hê hàng - tiền và ảnh hưởng không tốt đến giá cả. Do đó trong nền kinh tế, tín dụng được xem là một trong những biện pháp hữu hiệu góp phần ổn định tiền tệ. Khi được cho vay, doanh nghiệp sử dụng vốn vay trực tiếp vào quá trình kinh doanh mua sắm tài sản cố định, nguyên vật liệu, trả lương cho công nhân, tạo ra sản phẩm, bán sản phẩm và thu được tiền để trả nợ ngân hàng. Quá trình sử dụng vốn tín dụng gắn liền với quá trình tuần hoàn luân chuyển vốn nhằm thiết lập quan hệ cân đối giữa tiền và hàng, đây chính là cơ sở giá trị tiền được ổn định. Mặt khác, tín dụng còn tạo điều kiện mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt. Điều này giúp giảm bớt việc sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế và điều tiết tiền trong lưu thông phù hợp với yêu cầu kinh tế. Hiện nay cơ chế phát hành tiền và điều tiết tiền của các nước trên thế giới được tiến hành thông qua con đường tín dụng từ ngân hàng trung ương qua các ngân hàng thương mại thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu, tái cấp vốn. Khối lượng tín dụng tăng trưởng trong nền kinh tế quyết định khối lượng tiền tăng thêm cho nền kinh tế. Ngân hàng trung ương thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô như dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, thị trường mở tác động đến khả năng cấp tín dụng của ngân hàng thương mại, làm quyết định tăng giảm khối lượng tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế từ đó có tác dụng điều chỉnh tăng giảm khối lượng tiền trong lưu thông. Từ phân tích nêu trên, cho thấy tín dụng đã đóng góp không nhỏ trong việc ổn định tiền tệ từ đó tạo điều kiện để ổn định giá cả và là tiền đề quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế. 2.3.Thúc đẩy thị trường tài chính phát triển: Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, tình trạng có lúc người này đang tạm thời thừa tiền và người khác lại tạm thời thiếu vốn diễn ra thường xuyên và khá phổ biến. Tuy nhiên, giữa người thừa tiền muốn cho vay và người thiếu vốn muốn đi vay lại không dễ dàng gặp được nhau bởi giữa họ không có sự trùng hợp về thời gian, về số lượng vốn nên khó có thể tìm được sự phù hợp cân đối giữa cung và cầu vốn. Do đó một số tổ chức tài chính đã ra đời đóng vai trò trung gian kết nối nhu cầu giữa những chủ thể tạm thời thừa và thiếu tiền, nhằm giải quyết những khó khăn gặp phải giữa người đi vay và người cho vay. Và theo dòng thời gian, phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới, các định chế tài chính (financial institutions) ngày càng phát triển từ những phường hội tín dụng phát triển thành những ngân hàng thương mại (commercial bank) trong thời trung cổ và cho đến ngày nay thì mạng lưới ngân hàng đã có mặt khắp nơi trên toàn cầu, cho đến các định chế tài chính phi ngân hàng (non bank financial institutions) như: công ty tài chính (financial company), các hiệp hội tiết kiệm và cho vay (saving and loan associations), các hiệp hội tín dụng (credit unions), các quỹ đầu tư hỗ tương (mutual funds)…Sự tồn tại và phát triển của các định chế tài chính là điều kiện dẫn đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của thị trường tài chính. Thị trường tài chính sẽ không hoạt động nếu thiếu vắng các định chế tài chính trung gian. Từ giữa thế kỷ 20 cho đến nay sự phát triển của các định chế tài chính trung gian với tốc độ rất cao và không ngừng gia tăng quy mô. Thông qua hoạt động tín dụng, nhiều hàng hoá trên thị trường tài chính đã ra đời như kỳ phiếu thương mại, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu, công trái, các chứng từ có giá khác …Việc mua đi bán lại các chứng từ này làm tăng doanh số giao dịch trên thị trường tài chính lên đáng kể, và thị trường ngày càng sôi động, hấp dẫn hơn đã làm cho các sản phẩm của thị trường tài chính ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Mặt khác, lãi suất tín dụng trên thị trường là yếu tố quyết định quy mô và điều tiết hoạt động trên thị trường tài chính. Các nhà đầu tư sẽ có xu hướng lựa chọn đầu tư ở nơi nào, hình thức đầu tư nào hợp lý nhằm có thể đạt mức sinh lời cao hơn là lựa chọn hình thức gửi tiền vào ngân hàng và ngược lại những người có nhu cầu vốn có thể lựa chọn nguồn vốn thích hợp với chi phí thấp nhất. Nói tóm lại tín dụng là điều kiện thúc đẩy thị trường tài chính ra đời và phát triển điều tiết cung cầu vốn trong nền kinh tế.thị trường tài chính chính là sự phát triển hoàn thiện, đỉnh cao của các quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thị trường. 2.4.Tín dụng góp phần ổn định đời sống ,tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội: Vai trò này có thể nói là hệ quả tất yếu của các vai trò nêu trên. Nền kinh tế phát triển trong một môi trường tiền tệ ổn định là điều kiện tiền đề phát triển kinh tế, mở rộng đầu tư, phát triển kinh doanh, góp phần tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân từ đó nâng cao dần đời sống của các thành viên trong xã hội. Hoạt động tín dụng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp dân cư như cho vay phát triển kinh tế gia đình, mua sắm nhà cửa, tư liệu sinh hoạt, phục vụ người nghèo, quỹ xoá đói giảm nghèo…Ngoài ra nhà nước còn thực hiện những chính sách ưu đãi đối với các tổ chức tín dụng dân cư. Tất cả những việc này nhằm mục đích cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, tạo công ăn việc làm,giảm tỷ lệ thất nghiệp, qua đó góp phần ổn định trật tự xã hội. 3.Chức năng cùa tín dụng : Trong nền kinh tế hàng hoá ,tín dụng thể hiện 3 chức năng: 3.1.Chức năng tập trung,phân phối lại vốn trên cơ sở có hoàn trả: Đây là chức năng cơ bản nhất và quan trọng nhất của tín dụng. Nhờ có chức năng này của tín dụng mà các nguồn vốn tiền tệ trong xã hội được điều hoà, vận động từ nơi thừa sang nơi thiếu để sử dụng nhằm phát triển nền kinh tế. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai quá trình thống nhất trong sự vận hành của hệ thống tín dụng. Với chức năng này tín dụng được xem như là chiếc cầu nối giữa các nguồn cung cầu về vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Ở khâu tập trung, tín dụng là nơi tập hợp, huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội đáp ứng cung tiền tệ cho nền kinh tế. Ở khâu phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng là nơi đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, cá nhân, và cho cả ngân sách đáp ứng cầu tiền tệ cho nền kinh tế. Cả hai mặt tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ đều phải được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả, phục vụ chủ yếu cho nhu cầu sản xuất lưu thông hàng hoá dịch vụ. Qua đó nó thúc đẩy việc tập trung vốn và việc sử dụng vốn có hiệu quả góp phần đáng kể vào nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. 3.2.Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông trong xã hội: Khi thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng đã góp phần tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội. Qua quá trình huy động kịp thời những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội đưa những nguồn vốn tạm thời đứng yên này vào chu chuyển có nghĩa là tín dụng đã làm tăng nhịp độ vòng quay của đồng tiền, giảm lượng tiền dư thừa nhằm ổn định lưu thông tiền tệ. Mặt khác, để thực hiện quá trình tập trung vốn ngoài hình thức vay mượn trực tiếp thì các chủ thể có nhu cầu về vốn còn phát hành thêm các chứng từ có giá như: tín phíếu, trái phiếu, kỳ phiếu…mà ở những nước có nền kinh tế phát triển thì các loại chứng từ này được phép lưu thông và chuyển nhượng trong thời gian có hiệu lực. Điều này đã làm đa dạng các phương tiện thanh toán và tiết kiệm đáng kể lượng tiền mặt cần phải có trong lưu thông . Ngoài ra song song với việc tổ chức nghiệp vụ tín dụng sẽ là việc mở rộng nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho sự ra đời của bút tệ. Điều này làm giảm nhu cầu về lượng tiền mặt trong lưu thông đồng thời cũng góp phần làm giảm các chi phí có liên quan : chi phí in ấn, vận chuyển ,bảo quản tiền… 3.3.Chức năng kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế: Chức năng này là chức năng phát sinh, là hệ quả của hai chức năng trên, thể hiện cụ thể như sau: Khi thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, thì tín dụng đã góp phần phản ánh được mức độ phát triển của nền kinh tế về các mặt:khối lượng tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội là bao nhiêu? Nhu cầu vốn trong thời kỳ như thế nào? Từ đó có cái nhìn tổng quát về các quan hệ cân đối lớn trong nền kinh tế đặc biệt là quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng. Chẳng hạn như trong tổng nguồn vốn tích luỹ thì kết cấu gồm những khoản nào với khối lượng và sự biến động qua từng thời kỳ là bao nhiêu…Hoặc với nguồn vốn dành cho tiêu dùng thì tiêu dùng cho kinh tế phát triển là bao nhiêu, tiêu dùng cho cá nhân là bao nhiêu? Ngoài ra khi thực hiện hoạt động cho vay (khâu phân phối lại vốn tiền tệ), để đảm bảo tính an toàn cho các nguồn vốn đem cho vay, ngân hàng phải luôn thực hiện quá trình kiểm tra tình hình tài chính của đơn vị nhằm phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm chế độ quản lý kinh tế của nhà nước. Bên cạnh đó trên cơ sở thực hiện nguyên tắc cho vay có hoàn trả, tín dụng ngân hàng còn phản ánh kịp thời tình hình quản lý và sử dụng vốn của các đơn vị có hiệu quả hay không biểu hiện qua việc các đơn vị này có trả nợ đầy đủ và đúng hạn hay không? Với chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội, thông qua việc tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tạo điều kiện để ngân hàng tăng cường vai trò kiểm soát bằng đồng tiền đối với các đơn vị kinh tế vì mọi quá trình hình thành và sử dụng vốn của các đơn vị này đều được phản ánh và lưu giữ qua số liệu trên tài khoản tiền gửi, từ đó mà ngân hàng có cái nhìn tổng quát về cấu trúc tài chính của những đơn vị này. Như vậy, với chức năng kiểm soát và phản ánh các hoạt động kinh tế, chức năng phát sinh phụ thuộc vào sự phát triển của 2 chức năng trên nhưng vẫn không kém phần quan trọng đã góp phần giải quyết tình trạng mất cân đối cục bộ của nền kinh tế với những giải pháp kịp thời từ đó phát huy được vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước. Với ba chức năng của tín dụng, ta thấy rõ ràng tín dụng cần phải được vận dụng như là một đòn bẩy kích thích kinh tế không thể thiếu được trong quá trình tổ chức quản lý kinh tế-tài chính kiểm soát và thúc đẩy hoạt động kinh tế quốc dân. 4.Các nguyên tắc đảm bảo an toàn tín dụng: 4.1.Chất lượng tín dụng quan trọng hơn việc mở rộng tín dụng: Có một câu ngạn ngữ cổ đã cho rằng:”bất kỳ một thằng ngốc nào cũng có thể cho vay tiền nhưng để thu được nợ thì lại cần một cái đầu thông minh”. Ngân hàng không kinh doanh cho vay theo hình thức rủi ro mạo hiểm, bởi nếu làm như vậy thì ngân hàng phải trả cho những người gửi tiền một lãi suất cao hơn rất nhiều để có thể đền bù lại khả năng mất mát đối với khoản tiền gởi của họ. Nguồn vốn của ngân hàng là những khoản tiền gởi ngắn hạn mà công chúng đã tín thác cho ngân hàng, do đó loại tiền này không phải là loại tiền mà ngân hàng có thể cho vay hay đầu tư vào cổ phiếu một cách mạo hiểm. Ngân hàng không thể nào thu được khoản phí đủ để bù lại những khoản mất mát trong cho vay. Nhưng đôi khi trong quá trình cho vay, người ta rất dễ bỏ qua nguyên tắc về chất lượng tín dụng. Tình trạng này cũng nguy hiểm chẳng khác gì một thương gia kinh doanh mà không nghĩ đến lãi. Khi phân tích mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải trong cho vay, cần phải suy xét kỹ càng về kinh nghiệm quản lý, tiềm năng, các chính sách, khả năng sinh lời, luân chuyển vốn và giá trị thực của doanh nghiệp vay tiền. Cán bộ tín dụng phải xem xét và tự đưa ra quyết định rằng nên cho doanh nghiệp được vay bao nhiêu tiền, mục đích thực của khoản vay và cần phải mất bao nhiêu thời gian mới thu hồi được món nợ . 4.2.Ngay từ đầu,tất cả khoản cho vay phải có hai phương án trả nợ tách biệt Hiển nhiên phương án một là mọi chuyện đều trôi chảy, việc cho vay thành công. Chẳng hạn, khi xuất khẩu công ty bán được hàng và thu được tiền, có lãi và trả nợ được cho ngân hàng. Xét trên phương diện cho vay thì đó là giải pháp hoạt động kinh doanh của công ty sinh lời đủ để họ có thể trả nợ cho ngân hàng. Phương án thứ hai là dự phòng trường hợp nếu dự án không thành công thì doanh nghiệp phải lấy tài sản của họ để trả nợ hay đi vay để trả nợ, bao gồm cả việc sử dụng công cụ vay nợ trên thị trường. Ngân hàng đôi khi đòi hỏi doanh nghiệp phải chấp nhận những ràng buộc phi thực tế nhằm đảm bảo rằng khoản vay không phá vỡ bất cứ một nguyên tắc thông thường nào của doanh nghiệp. Nếu bạn thấy cần phải làm như vậy mới cảm thấy yên tâm thì bạn nên đặt câu hỏi “có nên cho vay hay không?” 4.3.Phẩm chất đòi hỏi đối với người vay tiền (chủ doanh nghiệp) là phải hoàn toàn trung thực : Nếu ngân hàng còn nghi ngờ sự trung thực, tư cách đạo đức hoặc ý định của người đi vay (doanh nghiệp) thì tốt nhất là không nên tiến hành cho vay. Vì vậy ngân hàng phải kiểm tra đạo đức nghề nghiệp cũng như cách thức kinh doanh của người đi vay trước khi đi vào đàm phán. Nên nhớ rằng nếu ngân hàng quan hệ với những khách hàng có tư cách dưới mức có thể chấp nhận thì ngân hàng sẽ huỷ hoại danh tiếng của mình và phải chịu thiệt hại nhiều hơn mức lợi nhuận mà nhân hàng có thể thu được trong giao dịch cho vay vốn. 4.4.Nếu như không hiểu rõ về doanh nghiệp thì đừng quyết định cho vay: Các ngân hàng thành công thường xác định một cách chính xác các điều kiện cho vay phù hợp với các tài sản có mức độ rủi ro khác nhau và họ phải chấp nhận những thiệt hại để có thể hiểu được khu vực thị trường mà họ định tiếp cận. Giám đốc một ngân hàng là người sẽ quyết định đối tượng nào được phép vay tiền, hình thức vay, mức vay, thời hạn, cơ chế đảm bảo, hồ sơ vay vốn…Nhưng quan trọng hơn cả là một giám đốc ngân hàng phải định hình được các đặc điểm rủi ro và lợi nhuận của mỗi một loại tài sản mạo hiểm và nếu cần thiết thì tuyển những chuyên gia có kinh nghiệm trước khi tiến hành kinh doanh. Sau cùng, nếu bạn không hiểu về lĩnh vực và ngành mà mình tham gia kinh doanh thì làm thế nào bạn có thể đánh giá được rủi ro ? Hơn nữa, khách hàng sẽ chỉ có được sự kí
Luận văn liên quan