Lý do chọn đề tài:
Kể từ khi gia nhập WTO, đất nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn và thách thức. Nền công nghiệp ô tô cũng không là một ngoại lệ. Hàng loạt chính sách bảo hộ nền sản xuất trước kia đều phải điều chỉnh theo lộ trình hội nhập. Các doanh nghiệp kinh doanh đang đứng trước những cơ hội to lớn nhưng cũng có không ít rủi ro trong lĩnh vực hoạt động của mình. Thị trường ô tô Việt Nam không nhỏ dù rằng mới chỉ là tiềm năng, thu nhập của người dân ngày càng tăng (đặc biệt là do sự tac động của thị trường tài chính trong nước), đối tượng khách hàng ngày càng mở rộng. Việc kinh danh xe ô tô tại Việt Nam nói chung và Thành Phố Hồ Chí Minh nói riêng trong tương lai sẽ là cơ hội rất lớn cho các nhà đầu tư. Chính vì vậy, nghiên cứu các hình thức kinh doanh và những rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động sẽ giúp các doanh nghiệp trong lĩnh vực này có biện pháp phòng tránh và đưa ra những giải pháp thích hợp.
Cùng với sự đam mê và sự theo dõi những biến động trong ngành ô tô tại Việt Nam, nhóm đã có những bước tiếp cận để tìm hiểu thông tin và đề tài này chính là cơ hội để nhóm áp dụng những kiến thức quản trị rủi ro đã được học vào thực tế. Đồng thời nâng cao sự hiểu biết về lĩnh vực mà các thành viên trong nhóm yêu thích.
Mục tiêu nghiên cứu:
Nắm bắt tình hình tổng quan và những xu hướng trên thị trường ô tô.
Nắm bắt được tình hình kinh doanh các sản phẩm trong ngành công nghiệp ô tô.
Tìm hiểu hình thức kinh doanh ô tô cũng như quy trình mua bán một sản phẩm ô tô lắp ráp tại Việt Nam.
Từ đó nhận diện và phát hiện ra các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này và đề xuất những giải pháp, kiến nghị phù hợp.
Phạm vi – đối tượng nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xe ô tô tại thị trường TP.HCM. Do khuôn khổ giới hạn của đề tài, nhóm chỉ tập trung nghiên cứu các đối tượng kinh doanh dòng sản phẩm xe ô tô dưới 9 chỗ ngồi – dòng sản phẩm chiếm sự quan tâm nhiều nhất của người tiêu dùng hiện nay - bao gồm :
Doanh nghiệp là đại lý của những liên doanh sản xuất ô tô tại Việt Nam (đối tượng nghiên cứu chính).
Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ô tô đã qua sử dụng ( nguồn từ nhập khẩu và trong nước).
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu mà nhóm thực hiện ở đề tài này là theo phương pháp điều tra và quan sát, thông qua kết quả khảo sát có được, nhóm tiến hành phân tích bằng các phương pháp quy nạp, diễn dịch từ đó nhận diện ra chuỗi các rủi ro tiềm ẩn trong hình thức kinh doanh của đối tượng nghiên cứu.
Giai đoạn 1: xác định đối tượng diều tra. Dưa trên việc quan sát những biến động của thị trường xe ô tô hiện nay, nhóm đã xác định dòng xe tiêu dùng (dưới chín chỗ ngồi) hiện đang tạo sự chú ý rất nhiều trên thị trường. Các thông tin bất lợi về các đại lý kinh doanh xe của các liên doanh lắp rắp ô tô trong nước ngày càng nhiều. Khách hàng ngày càng thể hiện sự mất tin tưởng vào các liên doanh lắp ráp ô tô tại Việt Nam, điều đó sẽ là rào cản lớn cho sự phát triển nền công nghiệp ô tô nước ta. Những câu hỏi như: Các rủi ro dó có nguyên nhân từ đâu ? Vì sao lại xuất hiện nhiều thông tin xấu dồn dập như thế ?. đã thôi thúc các thành viên nhóm tiến hàng thực hiện đề tài. Căn cứ vào quy mô và uy tín của thương hiệu, nhóm đã chọn ra 25 đại lý kinh doanh ô tô của 7 liên doanh bao gồm: FORD, VINASTAR, TOYOTA, VIDAMCO, HONDA, VMC và MERCEDES BENZ (Phục lục 1: Danh sách các đại lý khảo sát) và tiến hành điều tra 1 nhân viên tư vấn sản phẩm/1 đại lý theo bảng câu hỏi (Phục lục 2: Bảng Câu Hỏi Điều Tra Nhân Viên Tư Vấn).
Giai đoạn 2: tiến hành điều tra, có thể nói việc điều ra những rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh ô tô đối với thành viên nhóm là khó. Ngay từ những đối tượng khảo sát đầu tiên nhóm đã bị từ chối trả lời vì họ không có thời gian. Việc khảo sát gặp trở ngại trong một thời gian khá dài. Tuy nhiên với sự quyết tâm và lòng đam mê mà nhóm đã có thay đổi trong hình thức khảo sát: khảo sát gián tiếp thông qua vai trò người tiêu dùng tìm hiểu về các sản phẩm. Kết quả điều tra có giá trị hơn, tuy nhiên, những thông tin về nguồn gốc rủi ro cũng như tần xuất suất hiện của các rủi ro đối với các công ty là tuyệt mật và rất khó khai thác, một số câu hỏi về rủi ro trong Bảng Câu Hỏi khi nhóm đề cập không nhận được sự phản hồi (ví dụ câu 14, 15,18, 19) chính vì thế, để có thể thu thập những thông tin về quy trình mua bán xe, chính sách mua bán xe của các liên doanh đòi hỏi thành viên nhóm phải tiếp xúc mỗi một nhân viên của một đại lý nhiều lần (ít nhất là 3 và nhiều nhất là 8 lần) thông qua điện thoại, gặp gỡ trực tiếp, mail v.v và kết quả là nhóm đã tìm ra được một chuỗi các rủi ro liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các đại lý tại thị trường Thành Phố Hồ Chí Minh.
Giai đoạn 3: xử lý thông tin. Như đã đề cập ở giai đoạn 2, có rất ít sự phản hồi về những thông tin của nguồn gốc rủi ro (4/25 đại lý) cũng như tần xuất suất hiện của các rủi ro (3/25 đại lý), hoặc không đưa ra nhật định về đo lường mức độ ảnh hưởng của các rủi ro dựa trên thang Likert. Nên khi nhóm xử lý chéo bằng SPSS thì không thể hiện được mối tương quan nào giữa các yếu tố này, cũng như không nói lên được mức độ ảnh hưởng chung trên toàn thị trường. Chính vì vậy, thành viên nhóm quyết định sẽ trình bày phần các rủi ro trong chương 3 đi theo một quy trình mua bán xe ô tô dưới chín chỗ ngồi với những rủi ro tiềm ẩn rất lớn từ chính sách phân phối của hãng cũng như chính sách bán hàng của chính các liên doanh.
60 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5314 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ô tô tại thị trường TP HCM và các giải pháp phòng ngừa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÓM TẮT CÔNG TRÌNH
* TÊN ĐỀ TÀI :
NHỮNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ô TÔ TẠI THỊ TRƯỜNG TP.HCM VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA.
Đề tài của nhóm gồm 47 trang 4 chương. Được trình bày từ trang 1 đến trang 49:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về rủi ro.
Được trình bày từ trang 01 đến trang 15.
Chương 2: Giới thiệu sơ lược về thị trường ô tô Việt Nam và xu hướng trên thị trường trong thời gian tới.
Trình bày những diễn biến chính trên thị trường ô tô của nước ta từ năm 2000 cho đến nay, nhận định xu hướng của thị trường trong thời gian sắp tới khi chúng ta đã là thành viên chính thức của tổ chức WTO, xác định những tác động chính khi nước ta bắt đầu mở cửa ngành công nghiệp ô tô vào năm 2006 đối với đối tượng nghiên cứu.
Được trình bày từ trang 16 đến trang 23.
Chương 3: Những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ô tô tại thị trường TP.HCM.
Đây là chương quan trọng nhất vì là chương trình bày một cách hệ thống chuỗi các rủi ro trong hoạt động kinh doanh ở lĩnh vực ô tô. Từ đó nhận diện nguyên nhân của các rủi ro mà những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này hiện đang mắc phải.
Được trình bày từ trang 24 đến trang 37.
Chương 4:Các giải pháp và kiến nghị cho hoạt động kinh doanh ô tô tại TP.HCM.
Các giải pháp được nhóm xây dựng nhằm hạn chế các rủi ro được trình bày trong Chương 3. Đề xuất các kiến nghị giúp các doanh nghiệp cải tiến chất lượng hoạt động kinh doanh nhằm phòng tránh các rủi ro mà họ đã từng mắc phải
Được trình bày từ trang 38 đến trang 49.
LỜI NÓI ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Kể từ khi gia nhập WTO, đất nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn và thách thức. Nền công nghiệp ô tô cũng không là một ngoại lệ. Hàng loạt chính sách bảo hộ nền sản xuất trước kia đều phải điều chỉnh theo lộ trình hội nhập. Các doanh nghiệp kinh doanh đang đứng trước những cơ hội to lớn nhưng cũng có không ít rủi ro trong lĩnh vực hoạt động của mình. Thị trường ô tô Việt Nam không nhỏ dù rằng mới chỉ là tiềm năng, thu nhập của người dân ngày càng tăng (đặc biệt là do sự tac động của thị trường tài chính trong nước), đối tượng khách hàng ngày càng mở rộng. Việc kinh danh xe ô tô tại Việt Nam nói chung và Thành Phố Hồ Chí Minh nói riêng trong tương lai sẽ là cơ hội rất lớn cho các nhà đầu tư. Chính vì vậy, nghiên cứu các hình thức kinh doanh và những rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động sẽ giúp các doanh nghiệp trong lĩnh vực này có biện pháp phòng tránh và đưa ra những giải pháp thích hợp.
Cùng với sự đam mê và sự theo dõi những biến động trong ngành ô tô tại Việt Nam, nhóm đã có những bước tiếp cận để tìm hiểu thông tin và đề tài này chính là cơ hội để nhóm áp dụng những kiến thức quản trị rủi ro đã được học vào thực tế. Đồng thời nâng cao sự hiểu biết về lĩnh vực mà các thành viên trong nhóm yêu thích.
Mục tiêu nghiên cứu:
Nắm bắt tình hình tổng quan và những xu hướng trên thị trường ô tô.
Nắm bắt được tình hình kinh doanh các sản phẩm trong ngành công nghiệp ô tô.
Tìm hiểu hình thức kinh doanh ô tô cũng như quy trình mua bán một sản phẩm ô tô lắp ráp tại Việt Nam.
Từ đó nhận diện và phát hiện ra các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này và đề xuất những giải pháp, kiến nghị phù hợp.
Phạm vi – đối tượng nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xe ô tô tại thị trường TP.HCM. Do khuôn khổ giới hạn của đề tài, nhóm chỉ tập trung nghiên cứu các đối tượng kinh doanh dòng sản phẩm xe ô tô dưới 9 chỗ ngồi – dòng sản phẩm chiếm sự quan tâm nhiều nhất của người tiêu dùng hiện nay - bao gồm :
Doanh nghiệp là đại lý của những liên doanh sản xuất ô tô tại Việt Nam (đối tượng nghiên cứu chính).
Các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ô tô đã qua sử dụng ( nguồn từ nhập khẩu và trong nước).
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu mà nhóm thực hiện ở đề tài này là theo phương pháp điều tra và quan sát, thông qua kết quả khảo sát có được, nhóm tiến hành phân tích bằng các phương pháp quy nạp, diễn dịch từ đó nhận diện ra chuỗi các rủi ro tiềm ẩn trong hình thức kinh doanh của đối tượng nghiên cứu.
Giai đoạn 1: xác định đối tượng diều tra. Dưa trên việc quan sát những biến động của thị trường xe ô tô hiện nay, nhóm đã xác định dòng xe tiêu dùng (dưới chín chỗ ngồi) hiện đang tạo sự chú ý rất nhiều trên thị trường. Các thông tin bất lợi về các đại lý kinh doanh xe của các liên doanh lắp rắp ô tô trong nước ngày càng nhiều. Khách hàng ngày càng thể hiện sự mất tin tưởng vào các liên doanh lắp ráp ô tô tại Việt Nam, điều đó sẽ là rào cản lớn cho sự phát triển nền công nghiệp ô tô nước ta. Những câu hỏi như: Các rủi ro dó có nguyên nhân từ đâu ? Vì sao lại xuất hiện nhiều thông tin xấu dồn dập như thế ?... đã thôi thúc các thành viên nhóm tiến hàng thực hiện đề tài. Căn cứ vào quy mô và uy tín của thương hiệu, nhóm đã chọn ra 25 đại lý kinh doanh ô tô của 7 liên doanh bao gồm: FORD, VINASTAR, TOYOTA, VIDAMCO, HONDA, VMC và MERCEDES BENZ (Phục lục 1: Danh sách các đại lý khảo sát) và tiến hành điều tra 1 nhân viên tư vấn sản phẩm/1 đại lý theo bảng câu hỏi (Phục lục 2: Bảng Câu Hỏi Điều Tra Nhân Viên Tư Vấn).
Giai đoạn 2: tiến hành điều tra, có thể nói việc điều ra những rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh ô tô đối với thành viên nhóm là khó. Ngay từ những đối tượng khảo sát đầu tiên nhóm đã bị từ chối trả lời vì họ không có thời gian. Việc khảo sát gặp trở ngại trong một thời gian khá dài. Tuy nhiên với sự quyết tâm và lòng đam mê mà nhóm đã có thay đổi trong hình thức khảo sát: khảo sát gián tiếp thông qua vai trò người tiêu dùng tìm hiểu về các sản phẩm. Kết quả điều tra có giá trị hơn, tuy nhiên, những thông tin về nguồn gốc rủi ro cũng như tần xuất suất hiện của các rủi ro đối với các công ty là tuyệt mật và rất khó khai thác, một số câu hỏi về rủi ro trong Bảng Câu Hỏi khi nhóm đề cập không nhận được sự phản hồi (ví dụ câu 14, 15,18, 19) chính vì thế, để có thể thu thập những thông tin về quy trình mua bán xe, chính sách mua bán xe của các liên doanh đòi hỏi thành viên nhóm phải tiếp xúc mỗi một nhân viên của một đại lý nhiều lần (ít nhất là 3 và nhiều nhất là 8 lần) thông qua điện thoại, gặp gỡ trực tiếp, mail v..v… và kết quả là nhóm đã tìm ra được một chuỗi các rủi ro liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các đại lý tại thị trường Thành Phố Hồ Chí Minh.
Giai đoạn 3: xử lý thông tin. Như đã đề cập ở giai đoạn 2, có rất ít sự phản hồi về những thông tin của nguồn gốc rủi ro (4/25 đại lý) cũng như tần xuất suất hiện của các rủi ro (3/25 đại lý), hoặc không đưa ra nhật định về đo lường mức độ ảnh hưởng của các rủi ro dựa trên thang Likert. Nên khi nhóm xử lý chéo bằng SPSS thì không thể hiện được mối tương quan nào giữa các yếu tố này, cũng như không nói lên được mức độ ảnh hưởng chung trên toàn thị trường. Chính vì vậy, thành viên nhóm quyết định sẽ trình bày phần các rủi ro trong chương 3 đi theo một quy trình mua bán xe ô tô dưới chín chỗ ngồi với những rủi ro tiềm ẩn rất lớn từ chính sách phân phối của hãng cũng như chính sách bán hàng của chính các liên doanh. Sau đây là một số số liệu sơ cấp mà nhóm xử lý được sau giai đoạn khảo sát :
Số đại lý cùng lúc làm đại diện cho các hãng liên doanh hoặc cho các thương hiệu xe khác nhau là 3/25.
100% các liên doanh liên quan đến đối tượng mà nhóm khảo sát áp dụng hình thức phân phối mua đứt – bán đoạn.
100% các liên doanh áp dụng hình thức phân phối đảm bảo đầy đủ các chủng loại khác nhau cho cùng một dòng sản phẩm đối với các đại lý.
Số các đại lý có nguồn vốn hỗ trợ từ công ty liên kết là 4/26 (VMC - C.Ty Cơ Điện XD Nông Nghiệp & Thủy Lợi MÊKONG, HONDA - ôtô Kim Thanh, FORD - Xí Nghiệp CN & DV ôtô Isamco Hiệp Hưng,VINASTAR - C.Ty CP Và Đầu Tư Thương Mại A.M.C)
Số các đại lý phải vay ngân hàng và huy động nguồn vốn từ hoạt động kinh doanh khác nhằm thanh toán trước chi phí xe cho liên doanh là 22/26.
LÔØI NOÙI ÑAÀU
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 :
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO:
1.1.1 Khái niệm rủi ro: 1
1.1.2 Phân loại rủi ro: 1
1.1.2.1 Theo nguồn rủi ro: 1
1.1.2.2 Theo đối tượng rủi ro : 3
1.1.3 Phương pháp nhận dạng, phân tích, kiểm soát và phòng ngừa rủi ro :
1.1.3.1 Phương pháp nhận dạng rủi ro: 4
1.1.3.2 Phân tích rủi ro: 4
1.1.3.3 Đo lường rủi ro : 5
1.1.3.4 Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro: 7
1.2 NHỮNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU HÀNG HÓA
NÓI CHUNG :
1.2.1 Theo nguồn rủi ro: 9
1.2.1.1 Rủi ro về chính trị: 9
1.2.1.2 Rủi ro về kinh tế: 9
1.2.1.3 Rủi ro pháp lý: 10
1.2.1.4 Rủi ro về văn hóa: 10
1.2.1.5 Rủi ro về tài chính: 11
1.2.2 Theo quá trình nhập khẩu: 11
1.2.2.1 Rủi ro trong quá trình thu thập thông tin, lựa chọn đối tác: 11
1.2.2.2 Rủi ro trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng: 11
1.2.2.2.1 Rủi ro trong đàm phán: 11
1.2.2.2.2 Rủi ro trong khâu ký kết hợp đồng: 13
1.2.2.3 Rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng: 14
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2:
GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ THỊ TRƯỜNG Ô TÔ VIỆT NAM
VÀ XU HƯỚNG TRÊN THỊ TRƯỜNG TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1 Tổng quan thị trường ô tô tại việt nam và hành vi của người tiêu dùng trong thời gian qua 16
2.2 Dự báo xu hướng của thị trường và hành vi của người tiêu dùng trong thời gian tới 20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3:
NHỮNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ô TÔ
TẠI THỊ TRƯỜNG TP.HCM
3.1. NHÓM CÁC RỦI RO ĐẾN TỪ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ PHÂN PHỐI :
3.1.1. Rủi ro trong chính sách “Mua Đứt – Bán Đoạn” của các liên doanh sản xuất
ô tô trong nước 24
3.1.2. Nhóm các rủi ro trong quá trình giao dịch với khách hàng 26
3.1.3. Rủi ro bắt nguồn tự việc cạnh tranh nội bộ giữa các đại lý ủy quyền của nhà
phân phối : 29
3.1.4. Rủi ro trong chính sách kinh doanh & xúc tiến sản phẩm của nhà phân phối 30
3.2. NHÓM CÁC RỦI RO KHI KINH DOANH Ô TÔ ĐÃ QUA SỬ DỤNG :
3.2.1. Đối với xe nhập khẩu: 33
3.2.2. Xe đã qua sử dụng trong nước 34
3.3. CÁC RỦI RO KHÁC :
3.3.1. Rủi ro từ sự thay đổi chính sách bảo hộ nền công nghiệp ô tô Việt Nam: 34
3.3.2. Rủi ro từ tuy duy của người tiêu dùng: 36
3.3.3. Rủi ro từ việc hệ thống hạ tầng không đáp ứng được nhu cầu lưu thông bằng ôtô
và đến từ quy mô và tốc độ phát triển của thị trường: 36
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
CHƯƠNG 4 :
CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ CHO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ô TÔ
TẠI TP.HCM
4.1. GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU RỦI RO ĐỐI VỚI ĐẠI LÝ THÔNG QUA VIỆC TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ VỚI KHÁCH HÀNG: “CHIỀU LÒNG KHÁCH ĐẾN – VỪA LÒNG KHÁCH ĐI”
4.1.1 Biện pháp giảm thiểu rủi ro thông qua việc sửa đổi chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp: nên “Tập trung vào công việc bán hàng thứ cấp – đào tạo kỹ nhân viên”: 40
4.1.2 Giải pháp hạn chế rủi ro thông qua việc thành lập bộ phận marketing - dịch vụ, hỗ trợ và cung cấp kịp thời những thông tin cần thiết cho họat động kinh doanh của đại lý 43
4.2 GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU RỦI RO ĐỐI VỚI ĐẠI LÝ THÔNG QUA VIỆC CỦNG CỐ NỘI LỰC, ĐỀ XUẤT HỖ TRỢ HÃNG THAY ĐỔI BIỆN PHÁP KINH DOANH: 45
4.3 GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU RỦI RO CỦA LIÊN DOANH THÔNG QUA VIỆC TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ VỚI CHÍNH QUYỀN VÀ GIỚI TRUYỀN THÔNG: 46
4.4 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 48
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC 1:Danh sách các đại lý được khảo sát
PHỤ LỤC 2: Bảng câu hỏi phỏng vấn nhân viên kinh doanh
DANH MỤC HÌNH, DANH MỤC BẢNG
BẢNG 1: Cân đối năng lực, nhu cầu , và bổ sung sản lượng ô tô đến năm 2010. 17
BẢNG 2 :Mức thuế suất tiêu thụ đặc biệt trong ngành công nghiệp ô tô
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chương 1 :
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO
1.1 NHƯNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO:
1.1.1 Khái niệm rủi ro:
Khi nói đến rủi ro người ta thường hay nghĩ ngay đến những tổn thất, những thiệt hại "rủi ro " tồn tại trong tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của con người. Khi rủi ro xảy ra, thường làm cho hoạt động của con người trong lĩnh vực đó gặp khó
khăn, không ít thì nhiều gây tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh. Không ai muốn rủi ro nhưng nó có thể xảy ra bất cứ khi nào. Vậy rủi ro là gì? Theo một số chuyên gia về quản trị rủi ro thì "rủi ro là những tổn thất ngẫu nhiên hay một khả năng gây tổn thất hoặc khả năng xuất hiện những biến cố không mong đợi ". Một cách tổng quát có thể nói rằng rủi ro là khả năng một kết quả có lợi hoặc không có lợi sẽ xảy ra từ hiểm họa hiện hữu.
Tóm lại, rủi ro là điều kiện trong đó khả năng một sự bất lợi sẽ xuất hiện so với dự đoán khi có biến cố xảy ra. Rủi ro đi với bất ổn, lo lắng, tổn thất. Đây là khái niệm có thể nói là tổng quát nhất, nó bao quát tất cả mọi lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu. Tuy nhiên, trong lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu thì rủi ro có thể được khái niệm như sau: "Rủi ro trong kinh doanh nhập khẩu là những gì tồn tại khách quan và chủ quan trong môi trường kinh doanh nhập khẩu tạo ra những tổn thất, mất mát hoặc bỏ qua những cơ hội mất đi những gì đáng ra phải có trong tương lai đối với các nhà kinh doanh nhập khẩu trong quá trình thực hiện thương vụ nhập khẩu "
1.1.2 Phân loại rủi ro:
Tùy thuộc vào việc chọn tiêu chí khác nhau mà có nhiều loại rủi ro khác nhau và cũng tạo ra nhiều cách phân loại khác nhau: theo nguồn rủi ro, đối tượng rủi ro, quá trình nhập khẩu,...
1.1.2.1 Theo nguồn rủi ro:
Đây là tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất trong việc phân loại rủi ro và có thể phân thành các loại rủi ro sau:
Môi trường thiên nhiên: rõ ràng, một trong những nguồn rủi ro cơ bản nhất là môi trường vat chất xung quanh chúng ta. Động đất, hạn hán, bão lụt, đều có thể dẫn đến tổn thất. Sự bất lực của chúng ta trong việc hiểu biết môi trường chúng ta đang sống, sự ảnh hưởng của nó đối với chúng ta và ngược lại là nguyên nhân chủ yếu của rủi ro này.
Môi trường văn hoá: là những rủi ro dosự thiếu hiểu biết về phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lối sống, nghệ thuật, đạo đức, …. Của dân tộc khác, từ đó dẫn đến cách hành xử không phù hợp , gây ra những thiệt hại, tổn thất và mất cơ hội kinh doanh.
Môi trường xã hội: Sự thay đổi các chuẩn mực giá trị, hành vi của con người, cấu trúc xã hội, các định chế,... là rủi ro thứ hai. Nhiều nhà kinh doanh trên thế giới đã gặp phải những thất bại ê chề khi bước vào môi trường kinh doanh quốc tế. Chẳng hạn như sự khác biệt về các chuẩn mực
xã hội ở Nhật đã cho thấy đây là một nguồn bất định quan trọng đối với các danh nhân ở các nước trên thế giới.
Môi trường chính trị: Trong một đất nước, môi trường chính trị có thể là một nguồn rủi ro rất quan trọng. Chính sách của một tổng thống có thể ảnh hưởng nghiêm trọng lên các tổ chức chẳng hạn như việc cắt giảm ngân sách địa phương, ban hành các qui định mới.... Trên phương diện quốc tế, môi trường chính trị còn phức tạp hơn do đó sẽ tạo ra nhiều rủi ro hơn. Không phải tất cả các quốc gia điều dân chủ trong cách điều hành, nhiều nơi có thái độ và chính sách khác nhau về kinh doanh. Tài sản nước ngoài đôi khi có thể bị nước chủ nhà "quốc hữu hóa " hay việc thay đổi liên tục về chính sách thuế, các qui định về kinh doanh xuất nhập khẩu.... Môi trường chính trị cũng có thể tác động tích cực thông qua các chính sách tài chính và tiền tệ, việc thực thi pháp luật, giáo dục cộng đồng.
Môi trường luật pháp: có rất nhiều sự bất định và rủi ro phát sinh từ hệ thống pháp luật. Luật pháp không chỉ để ra các chuẩn mực và các biện pháp trừng phạt. Vấn đề là bản thân xã hội có sự tiến hóa và các chuẩn mực này có thể không tiên liệu được hết. Ơ phạm vi quốc tế còn phức tạp hơn vì các chuẩn mực luật pháp có thể thay đổi rất nhiều từ nơi này sang nơi khac cụ thể là thị trường Hoa kỳ.
Môi trường kinh tế. Mặc dù môi trường kinh tế thường vận động theo môi trường chính trị nhưng sự phát triển rộng lớn của thị trường toàn cầu đã tạo ra một nền kinh tế chung cho tất cả các nước. Mặc dù các hoạt động của chính phủ có thể ảnh hưởng tới thị trường vốn thế giới nhưng hầu như một quốc gia không thể kiểm soát nổi thị trường này. Tình trạng lạm phát, suy thoái, đình đốn là các yếu tố của hệ thống kinh tế mà không một quốc gia nào có thể kiểm soát nổi.
Môi trường hoạt động: Quá trình hoạt động của tổ chỉ có thể làm phát sinh rủi ro và bất định. Các hoạt động của tổ chức có thể gây tổn hại cho môi trường. Kinh doanh quốc tế có thể gặp các rủi ro và bất định do hệ thống giao thông vận chuyển không tin cậy.
Vấn đề nhận thức: Khả năng của một nhà quản trị rủi ro trong việc xem xét, đo lường, đánh giá chưa phải là hoàn hảo. Một nguồn rủi ro quan trọng đối với hầu hết các tổ chức là sự nhận thức và thực tế hoàn toàn khác nhau. Môi trường nhận thức là nguồn rủi ro đầy thách thức trong việc nhận diện và phân tích rủi ro. Vì những phân tích đó đòi hỏi trả lời những câu hỏi như: "làm sao hiểu được ảnh hưởng của sự bất định lên tổ chức ? " hay "làm sao biết được cái mình nhận thức là đúng với thực tế? "
1.1.2.2 Theo đối tượng rủi ro :
Theo đối tượng rủi ro cũng có thể phân chia rủi ro thành các loại:
Nguy cơ rủi ro về tài sản: là khả năng được hay mất đối với tài sản vật chất, tài sản tài chính hay tài sản vô hình và các kết quả này xảy ra do các hiểm họa hoặc rủi ro. Tài sản có thể bị hư hỏng, bị hủy hoại hay tàn phá, mất mát hoặc giảm giá theo nhiều cách khác nhau. Việc không sử dụng tài sản trong một thời gian - tổn thất về mặt thời gian - là một ví dụ cho một loại tổn thất thường bị bỏ qua.
Nguy cơ rủi ro về trách nhiệm pháp lý: là các nguy cơ có thể gây ra các tổn thất về trách nhiệm pháp lý đã được quy định chi tiết trong các bộ luật dân sự và hình sự. Nguy cơ rủi ro về trách nhiệm pháp lý thực chất là một bộ phận của nguy cơ rủi ro về tài sản nhưng nó cũng có những đặt trưng khác hẳn các nguy cơ rủi ro về tài sản vì nó là nguy cơ rủi ro thuần túy
Nguy cơ rủi ro về nguồn nhân lực: là nguy cơ rủi ro có liên quan đến "tài sản con người" của tổ chức. Rủi ro có thể gây tổn thương hay tử vong cho các nhà quản lý, công nhân viên hay các đối tượng có liên quan đến tổ chức như khách hàng, người cung cấp, người cho vay, các cổ đông,....
Các yếu tố mạo hiểm và mối nguy hiểm phát sinh từ các nguồn rủi ro và đối tượng rủi ro này nhiều vô kể. Một số có thể tưởng tượng được, một số thì không. Một vài mối nguy hiểm có thể phát sinh từ nhiều nguồn rủi ro khác nhau như cháy nổ hàng hóa chẳng hạn nó có thể phát sinh do môi trường vật chất (sét đánh) hay do môi trường xã hội (bạo động).... Dựa vào những cách phân loại này người ta có thể hình dung được các loại rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa, từ đó tìm ra những phương pháp nhận dạng, phân tích, kiểm soát và phòng ngừa chúng.
1.1.3 Phương pháp nhận dạng, phân tích, kiểm soát và phòng ngừa rủi ro :
1.1.3.1 Phương pháp nhận dạng rủi ro:
Là quá trình nhận biết, xác định một cách liên tục và có hệ thống những nguy cơ rủi ro tiềm năng đối tài sản, trách nhiệm pháp lý và nguồn nhân lực... mà những hiểm họa và mối nguy hiểm đó sẽ dẫn đến những tổn thất của một tổ chức trong hoạt động kinh doanh. Các hoạt động nhận dạng nhằm phát triển thông tin về nguồn gốc rủi ro, các yếu tố mạo hiểm, hiểm họa, đối tượng rủi ro, và các loại tổn thất. Nhận dạng bao gồm các công việc nghiên cứu, xem xét môi trường hoạt động của công ty kinh doanh nhằm theo dõi các rủi ro đang có, nhận dạng rủi ro mới để có thể đề ra các biện pháp phòng tránh rủi ro cho công ty kinh doanh.
Thông thường một nhà quản trị rủi ro khó mà xác định được hết các rủi ro của tổ chức, từ đó không thể có những biện pháp quản lý đối với các rủi ro chưa phát hiện được, thành ra tổ chức vô tình giữ lại những rủi ro
này. Vì vậy, một phương pháp nhận dạng rủi ro có hệ thống là rất cần thiết.
Để xác định được tất cả các khả năng được và mất, trước tiên cần một phương pháp nhằm tìm hiểu tất cả các kết quả có thể xảy ra đối với nhà kinh doanh. Phương pháp thường dùng hiện nay hay được các nhà quản trị rủi ro sử dụng đó là dùng bảng liệt kê. Một bảng liệt kê các tổn thất tiềm năng hầu như luôn luôn hình thành từ một bảng câu hỏi được thiết kế để phục vụ cho mục đích rộng hơn. Thông thường bảng câu hỏi yêu cầu các thông tin cần thiết để nhận dạng và xử lý các đối tượng r