Ngày nay, nền kinh tế Việt Nam không ngừng phát triển, nhu cầu đời sống người dân ngày càng nâng cao. Đáp ứng nhu cầu đó, người dân Việt Nam đã chủ động, tích cực học tập và rèn luyện, để ngày càng năng động và sáng tạo hơn trên mọi lĩnh vực kinh tế thị trường. Mãi đua theo tiến độ phát triển, chúng ta đã vô tình quên đi một thứ rất giá trị và quí báu đối với con người Việt Nam . Đó là mầm mống, nền tảng của sự phát triển ngày nay. Vâng! Không gì khác hơn, đó chính là lịch sử của Việt Nam chúng ta. Đất nước ta đã trải qua bao cuộc đấu tranh, dựng nước và giữ nước đem lại hòa bình, dân chủ cho dân tộc.
Đến đây, chúng ta hãy quay ngược bánh xe thời gian để về lại những năm 1975-1985, sau khi giải phóng miền Nam , thống nhất đất nước. Những cuộc chiến đi qua đã để lại những hậu quả hết sức nặng nề cả về vật chất lẫn tinh thần. Đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, kẻ thù lại ra sức bao vây cấm vận kinh tế nước ta, thiên tai lũ lụt thường xuyên xảy ra tình hình kinh tế xã hội ở thời kỳ hậu chiến rất phức tạp Đứng trước tình hình đó, nhiệm vụ trước mắt của nhân dân ta là phải nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời củng cố quốc phòng, bảo vệ thành quả của cách mạng.
Trải qua các kỳ Đại hội toàn quốc của Đảng, cách mạng nước ta đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận, đó là: hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, nhanh chóng khôi phục được nền kinh tế quốc dân, khắc phục được những hậu quả của thiên tai lũ lụt, tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (chiến tranh biên giới phía Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc), làm được nghĩa vụ quốc tế (giúp bạn Lào và Cam-pu-chia), ổn định đời sống nhân dân trong nước về nhiều mặt.
Bên cạnh những thành tựu nói trên, cách mạng nước ta cũng gặp rất nhiều khó khăn và yếu kém: Nền kinh tế kém phát triển, tình hình sản xuất ngày một tụt lùi, đời sống người dân ngày càng giảm sút hơn, đất nước bước vào thời kỳ khủng hoảng về kinh tế xã hội. Nhằm khắc phục những khó khăn trên, Đảng ta đã nhận thấy: phải đổi mới chủ trương chính sách và biện pháp thực hiện. Vì vậy, tại Đại hội thường kỳ của Đảng, Đại hội VI (12/1986) đã đưa ra những ưu khuyết điểm của những đại hội trước từ đó đề ra những đổi mới cho đất nước. Và qua thực tiễn những gì đang diễn ra hiện nay trên nước ta, đã chứng minh tính đúng đắn của Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam trong Đại hội này.
11 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11291 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nội dung của Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (12/1986), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nội dung của Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (12/1986)
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu................................................................................................................................... 2
Những vấn đề chính của tiểu luận........................................................................................... 3
1. Khái quát về Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam .......................... 3
2. Bối cảnh lịch sử Đại hội Đảng lần VI............................................................................. 4
3. Nội dung Đại hội Đảng lần VI......................................................................................... 6
3.1. Báo cáo chính trị...................................................................................................... 6
3.2. Mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế Kinh tế - Xã hội............................. 7
4. Ý nghĩa - hạn chế............................................................................................................... 8
Kết luận........................................................................................................................................ 9
Nguồn tài liệu........................................................................................................................ 10
Bảng phân công .................................................................................................................... 10
Lời mở đầu
Ngày nay, nền kinh tế Việt Nam không ngừng phát triển, nhu cầu đời sống người dân ngày càng nâng cao. Đáp ứng nhu cầu đó, người dân Việt Nam đã chủ động, tích cực học tập và rèn luyện, để ngày càng năng động và sáng tạo hơn trên mọi lĩnh vực kinh tế thị trường. Mãi đua theo tiến độ phát triển, chúng ta đã vô tình quên đi một thứ rất giá trị và quí báu đối với con người Việt Nam . Đó là mầm mống, nền tảng của sự phát triển ngày nay. Vâng! Không gì khác hơn, đó chính là lịch sử của Việt Nam chúng ta. Đất nước ta đã trải qua bao cuộc đấu tranh, dựng nước và giữ nước đem lại hòa bình, dân chủ cho dân tộc.
Đến đây, chúng ta hãy quay ngược bánh xe thời gian để về lại những năm 1975-1985, sau khi giải phóng miền Nam , thống nhất đất nước. Những cuộc chiến đi qua đã để lại những hậu quả hết sức nặng nề cả về vật chất lẫn tinh thần. Đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, kẻ thù lại ra sức bao vây cấm vận kinh tế nước ta, thiên tai lũ lụt thường xuyên xảy ra… tình hình kinh tế xã hội ở thời kỳ hậu chiến rất phức tạp… Đứng trước tình hình đó, nhiệm vụ trước mắt của nhân dân ta là phải nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời củng cố quốc phòng, bảo vệ thành quả của cách mạng.
Trải qua các kỳ Đại hội toàn quốc của Đảng, cách mạng nước ta đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận, đó là: hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, nhanh chóng khôi phục được nền kinh tế quốc dân, khắc phục được những hậu quả của thiên tai lũ lụt, tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (chiến tranh biên giới phía Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc), làm được nghĩa vụ quốc tế (giúp bạn Lào và Cam-pu-chia), ổn định đời sống nhân dân trong nước về nhiều mặt.
Bên cạnh những thành tựu nói trên, cách mạng nước ta cũng gặp rất nhiều khó khăn và yếu kém: Nền kinh tế kém phát triển, tình hình sản xuất ngày một tụt lùi, đời sống người dân ngày càng giảm sút hơn, đất nước bước vào thời kỳ khủng hoảng về kinh tế xã hội. Nhằm khắc phục những khó khăn trên, Đảng ta đã nhận thấy: phải đổi mới chủ trương chính sách và biện pháp thực hiện. Vì vậy, tại Đại hội thường kỳ của Đảng, Đại hội VI (12/1986) đã đưa ra những ưu khuyết điểm của những đại hội trước từ đó đề ra những đổi mới cho đất nước. Và qua thực tiễn những gì đang diễn ra hiện nay trên nước ta, đã chứng minh tính đúng đắn của Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam trong Đại hội này.
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về những thành công cũng như những mặt còn tồn tại cần phải giải quyết của Đại hội Đảng lần VI, nhóm sinh viên chúng tôi đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Nội dung của Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (12/1986)”, dưới sự hướng dẫn nhiệt
tình của thầy giáo Ths.Trần Đình Tâm, khoa Mac-Lênin
Những vấn đề chính của tiểu luận
1. Khái quát về Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam được Nguyễn Ái Quốc sáng lập vào ngày 3/2/1930. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động là đại biểu trung thành vì lợi ích dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đại hội đại biểu toàn quốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Ban Chấp hành Trung ương triệu tập thường lệ 5 năm một lần. Đại biểu dự đại hội gồm các Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương triệu tập đại hội và đại biểu do đại hội cấp dưới bầu. Đại hội đại biểu toàn quốc bất thường có thể được triệu tập khi Ban Chấp hành Trung ương thấy cần hoặc khi có hơn một nửa số cấp ủy trực thuộc yêu cầu. Đại biểu dự Đại hội bất thường là các Uỷ viên Trung ương đương nhiệm, đại biểu đã dự Đại hội đại biểu toàn quốc đầu nhiệm kỳ, đủ tư cách. Ở các cấp, cơ quan lãnh đạo cao nhất là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên, với đại biểu tham dự gồm các ủy viên ban chấp hành cấp triệu tập đại hội và đại biểu do đại hội cấp dưới bầu.
Đại hội Đảng được tổ chức với 4 nhiệm vụ chính:
- Đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết của nhiệm kỳ vừa qua;
- Quyết định đường lối, chính sách của đảng nhiệm kỳ tới;
- Bầu Ban Chấp hành Trung ương;
- Bổ sung, sửa đổi Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng khi cần.
Gần 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi to lớn: Đánh thắng các thế lực xâm lược giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; bảo vệ vững chắc lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, tiến hành sự nghiệp đổi mới, đưa Việt Nam hội nhập vào trào lưu chung của thế giới để phát triển mạnh mẽ, vững chắc, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, thịnh vượng của nhân dân thế giới.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam . Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, vấn đề cơ bản trước hết là đề ra đường lối cách mạng và hoạch định đường lối là công việc quan trọng hàng đầu của một chính Đảng.
Thông qua những Đại hội, Đảng đã đề ra những kế hoạch, những định hướng cho sự phát triển của đất nước. Tiêu biểu là Đại hội lần VI (12/1986). Tại Đại hội Đảng đã đưa ra những văn kiện quan trọng, có ý nghĩa trọng đại, tạo nền tảng để tinh thần đổi mới được hiện thực
hóa, mở ra thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN.
Với phương châm "Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật", báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng lần VI đã được soạn thảo lại một cách cở bản và thiết thực. Báo cáo đã đề cập thẳng thắn các vấn đề về cơ cấu kinh tế, cải tạo XHCN, các quan hệ sản xuất mới, cơ chế quản lý kinh tế và nhiều sự thật, kể cả những "sai lầm nghiêm trọng và kéo dài" cũng đã được nêu lên.
2. Bối cảnh lịch sử trước Đại hội lần VI của Đảng
Đại hội Đảng lần VI đực họp từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986 tại Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1,129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên cả nước, 32 đoàn đại biểu của các Đảng và các tổ chức quốc tế. Đại hội diễn ra trong bối cảnh "rối ren" của đất nước
2.1. Trên thế giới
Các nước Đế quốc, đứng đầu là Mỹ đang tập trung tìm cách chống phá hệ thống xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
Mặc khác, hệ thống xã hội chủ nghĩa (ngay cả Liên Xô và Trung Quốc) đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, và đang bước vào cải cách, cải tổ với các hình thức và mức độ khác nhau. Có nước thành công, có nước thất bại.
Từ thực tiễn các nước, đã giúp Đảng ta định hướng được con đường đổi mới đúng đắn cho nước nhà.
2.2. Trong nước:
Sau khi hoà bình được lập lại, nhà nước Việt Nam thống nhất được hoàn thiện, nhân dân cả nước hồ hởi dưới ngọn cờ của Đảng đã bắt tay vào xây dựng đất nước theo hướng chủ nghĩa xã hội. Đó là nguyện vọng chính đáng và tất yếu của nhân dân Việt Nam và là nhiệm vụ chính của Đảng, cách mạng Việt Nam trong thời kì mới.
Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III (9/1960) của Đảng. Trước thời kỳ đổi mới, nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa theo 2 giai đoạn: từ 1960 đến 1975 công nghiệp hóa ở miền Bắc và từ 1975-1985 công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước.
Từ thực tiễn chỉ đạo công nghiệp hóa 5 năm (1976-1981), Đảng rút ra kết luận: từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi của công nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Với cách đặt vấn đề như trên, Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982) đã xác định trong chặn đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta là phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đây là bước điều chỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam . Tiếc rằng, trên thực tế
chúng ta đã không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan trọng này.
Nhìn chung thời kỳ 1960-1985 chúng ta đã nhận thức và tiến hành công nghiếp hóa theo kiểu cũ với những đặc trưng chủ yếu sau:
- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng.
- Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, trong một nền kinh tế phi thị trường.
Mặc dù vậy, quá trình công nghiệp hóa vẫn đạt được những kết quả quan trọng, tạo cơ sở ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, công cuộc công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế như:
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật còn hết sức lạc hậu. Những ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
- Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đất nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển; rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Những hạn chế trên xuất phát từ nguyên nhân:
- Về khách quan: Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, các tỉnh biên giới vẫn trong tình trạng bị cấm vận, đồng thời phải phòng chống các thế lực chống phá chính quyền nước ta, nên không thể tập trung sức người, sức của vào công nghiệp hóa.
- Về chủ quan: Chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng "trong việc xác định mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư... Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý chí trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa.
Sai lầm của đợt tổng cải cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế Việt Nam càng trở nên khó khăn (tháng 12 năm 1986, giá bán lẻ hàng hóa tăng 845,3%). Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
* TTXH - thị trường xã hội: được hiểu là thị trường chung của hàng hóa nhà nước, tập thể, tư nhân (hợp pháp và bất hợp pháp).
* TTTC - thị trường tổ chức: được hiểu là thị trường quốc doanh.
* TTTD - thị trường tự do: được hiểu theo giá chợ.
* GIA NS: Giá nông sản.
(Nguồn: Niên giám thống kê 1986)
Trước tình hình trên, tại Đại hội lần VI (12/1986), Đảng đã tập trung xem xét quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa, phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960-1986. Từ đó, cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đây là điểm khởi đầu hết sức quan trọng cho quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa ở Việt Nam; tạo sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trong việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng để tiến lên.
3. Nội dung Đại hội Đảng lần VI (12/1986)
Đại hội đã thông qua bản Điều lệ Đảng đã sửa đổi và bầu Ban Chấp hành trung ương khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức, 1 ủy viên dự khuyết. Ông Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội đã thảo luận và thông qua các nghị quyết về các văn kiện như: báo cáo chính trị; mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội 5năm 1986-1990; báo cáo về bổ sung điều lệ Đảng.
3.1. Báo cáo chính trị
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thực, nói rõ sự thật, Đại hội đã đánh giá đúng mức những thành tựu đạt được sau 10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đi sâu phân tích những tồn tại và nghiêm khắc tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong 10 năm (1976-1986).
Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ hóa sinh hoạt chính trị của Đảng và nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội
Đại hội đã đánh giá những thành tựu, những khó khăn của đất nước do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra, những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó, đặc biệt là sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. Báo cáo chính trị tổng kết thành bốn bài học kinh nghiệm lớn:
- Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc".
- Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan.
- Phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
- Chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
3.2. Mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế Kinh tế - Xã hội
3.2.1. Mục tiêu phát triển
Báo cáo xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế- xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy.
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là: 1. Lương thực - thực phẩm, 2. Hàng tiêu dùng và 3. Hàng xuất khẩu. Làm cho thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động.
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
- Tạo sự chuyển biến tốt về mặt xã hội (tạo việc làm, thực hiện công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ kỷ cương phép nước...)
- Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
3.2.2. Phương hướng đổi mới
Đổi mới ở đây được hiểu là thay đổi cách thức để đạt được mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
* Đổi mới về Kinh tế:
Về đối nội, Đại hội đã nêu ra năm phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội và đề ra hệ thống các giải pháp để thực hiện mục tiêu:
- Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư.
- Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế, coi nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa
- Phát huy động lực của khoa học - kỹ thuật
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Trong hệ thống các giải pháp, Đại hội nhấn mạnh phải tập trung sức lực vào việc thực hiện được ba chương trình, mục tiêu: Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dung và hàng xuất khẩu. Đây là sự cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Về chính sách đối ngoại, Đại hội đề ra mục tiêu tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước nhằm góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, góp phần giữ vững hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.
Về huy động sức mạnh của quần chúng, Đại hội xác định phải phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện khẩu hiệu "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu bảo đảm huy động lực lượng to lớn của quần chúng.
* Đổi mới về chính trị
Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực hiện của Đảng, Đại hội đã nêu rõ Đảng phải đổi mới về nhiều mặt:
- Đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, đổi mới quản lý và điều hành của nhà nước cho phù hợp với cô cấu và cơ chế kinh tế mới.
- Đổi mới về quan hệ hợp tác quốc tế theo hướng mở, kêu gọi hợp tác và đầu tư nước ngoài.
4. Ý nghĩa - hạn chế
Trong khi các nước XHCN thực hiện cải tổ, cải cách hoặc sửa chữa sai lầm thì Đảng ta chủ truơng đổi mới. Đại hội VI chính thức đưa khái niệm đổi mới vào đường lối của Đảng. Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặc trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng Việt Nam …
Là mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết bền lâu. Đường lối đổi mới của Đại hội VI đã mở đường cho đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, mở ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ mới của lịch sử Cách mạng Việt Nam .
Đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật, vào những sai lầm khuyết điểm và đổi mới theo xu thế mới của thời đại mới.
Là Đại hội: "trí tuệ - dân chủ - đoàn kết và đổi mới"
Tuy nhiên, Đại hội VI còn có những hạn chế về những giải pháp tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối và lưu thông.
Kết luận
Với quyết tâm khắc phục khó khǎn, với tinh thần kiên trì và tích cực trong tìm tòi thử nghiệm, nhân dân ta vẫn không nao núng trước những biến động về kinh tế - xã hội. Đảng ta vẫn quyết tâm làm chuyển biến tư duy, nhận thức và tư tưởng, xác định nhiều quan điểm, chủ trương, chính sách mới, nhằm khắc phục khủng hoảng và tìm mọi cách đưa đất nước phát triển theo con đường XHCN.
Những tìm tòi, thử nghiệm trong thời kỳ 1979 - 1986 đã chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho việc Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới tại Đại hội VI (12-1986). Đại hội VI đã thực sự mở ra một bước ngoặt trên con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.
Sau